Âu Dương Khiêm nghe Đàm Tú Trữ nói, nhớ tới mấy năm qua, trong Phổ Tế Y Hội, Đàm Lộc Trữ cũng bộc lộ tài hoa, nói năng đĩnh đạc. Trong y hội, tuổi hắn, Lộ Dao và Tô Tiếu, Đàm Lộc Trữ đều sàn sàn nhau, tuy tính cách khác biệt nhưng nói chuyện rất hợp, bây giờ cố nhân quy thiên, không khỏi thổn thức. Giờ thấy Đàm Tú Trữ thay vong huynh tới phó hội, trong lòng cực kỳ xúc động. Lộ Dao lại có tâm tư khác, mấy năm nay du lịch hành y, đủ loại chuyện cũ thoáng hiện trong đầu, cảm xúc ngổn ngang. Thế là hỏi han Âu Dương Khiêm và Đàm Tú Trữ có chỗ dừng chân hay chưa, nếu không có thì muốn mời hai người đến biệt trang Thu Linh trang dừng chân nghỉ ngơi. Hai lần trước Âu Dương Khiêm đều ở biệt trang nên không khách sáo gật đầu ngay. Đàm Tú Trữ vốn có chút khúc mắc chuyện Ân Lê Đình, nhưng lần này là lần đầu tiên một mình nàng đi xa nhà, ít nhiều gì cũng có sợ hãi. Nghe Âu Dương Khiêm là chỗ quen biết đồng ý, lại thêm Lộ Dao khuyên nhủ cũng gật đầu.
Lộ Dao đưa thẳng hai người đến biệt trang ngoài thành, dặn dò quản gia xong mới cùng Ân Lê Đình quay về Thu Linh trang. Vừa đi vừa nghĩ ý định này của mình thật không sai, vừa thu xếp ổn thỏa cho Đàm Tú Trữ vừa giao được Kỷ Hiểu Phù sắp sinh cũng ở biệt trang cho hai đại phu giỏi, khá là cao hứng. Ân Lê Đình đi bên cạnh dường như cũng bị dáng vẻ hí hửng mặt mày phơi phới của nàng ảnh hưởng, trong lòng ấm áp vui sướng, dọc đường đi ngược lại hai người không còn xấu hổ như buổi chiều nữa.
Trở về Thu Linh trang, Ân Lê Đình đưa Lộ Dao về phòng. Hôm nay mười bốn tháng tám, trời đêm trong vắt tuyệt đẹp, Lộ Dao quay người đối mặt với Ân Lê Đình đứng dưới bậc thềm, bỗng nhiên nhớ đến đêm thất tịch Hàng Châu, hai người cũng đứng trước cửa phòng mình thế này. Lúc ấy nàng quay người thấy Ân Lê Đình đứng trước cửa phòng, tươi cười dịu dàng như ánh trăng, bàn tay đang định đóng cửa phòng không đóng tiếp được nữa. Bây giờ, tình huống y hệt lại tái diễn, tay Lộ Dao đặt lên cánh cửa không sao động đậy được, không biết là vì không thể hay là không muốn. Muốn nói gì đó nhưng mở miệng ra lại là: “… Hơ, lục ca, Kỷ cô nương sắp sanh rồi, Tú Trữ và Âu Dương ở biệt trang có thể ở gần chiếu cố…”
Ân Lê Đình thấy nàng lại bắt đầu đánh trống lảng, lần này không có kinh ngạc mà chỉ cười thầm trong dạ, nở nụ cười e thẹn, nhỏ nhẹ đáp: “Ừ, vậy cũng tốt.”
Lộ Dao cắn môi, nói tiếp: “Hơ, cái đó… huynh phải chú ý vết thương, đừng đụng nước, mỗi ngày nhớ tới thay thuốc.”
“Ừ, huynh biết mà.”
“Lục ca… mai là Trung Thu, Thu Nhiên chuẩn bị cơm tối, các huynh nhớ tới.”
“Ừ, tất nhiên.”
“Cái đó… chuyện Thành Côn, muội và Thu Nhiên có biện pháp rồi, các huynh đừng lo lắng quá.”
“Ừ, không đâu.”
Lộ Dao lè lưỡi “Lục ca, vậy… muội đi nghỉ đây!”
Ân Lê Đình đang định lên tiếng thì thấy Lộ Dao chuồn cái vèo vào phòng đóng cửa lại. Chàng thoáng bình ổn lại nhịp tim vừa đập liên hồi, gió đêm thổi qua, hai chiếc chuông gió dưới mái hiên khe khẽ rung.
Ân Lê Đình vừa ra khỏi viện của Lộ Dao thì thấy Phó Thu Nhiên chắp tay sau lưng đứng dưới hành lang, quay lưng về phía mình, dường như đang ngắm trăng. Chàng bước không ra tiếng, ắt hẳn Phó Thu Nhiên không nghe thấy vì thế lên tiếng: “Thu Nhiên huynh.”
Ban nãy Phó Thu Nhiên biết Lộ Dao và Ân Lê Đình cùng về từ chỗ người hầu, liền đoán giờ tất là Ân Lê Đình đưa Lộ Dao về phòng bèn đứng đây ngắm trăng chờ chàng.
“Ân huynh khỏe không? Ta nghe sai vặt nói hình như hôm nay Ân huynh bị thương?”
Mặt Ân Lê Đình ửng đỏ: “Không sao cả, bị thương ngoài da thôi. Tiểu Dao đã xử lý rồi.”
Mắt Phó Thu Nhiên thoáng chút hài hước, gật đầu “Trước nay A Dao xử lý ngoại thương luôn sạch sẽ đẹp nhất, nàng đích thân xử lý, vết thương lành nhanh lắm, Ân huynh thật là may mắn.”
Ân Lê Đình bị hắn nói thế, ngượng ngùng cười cười, mặt càng đỏ, trong lòng lại êm ái vô cùng.
Phó Thu Nhiên nhìn người trước mắt, sực nhớ tới tính tình mặt dày của Lộ Dao, ở bên chàng sau này hẳn là mình không thiếu trò vui để coi. Nghĩ đến đó, ý cười trên mặt càng đậm, hắng giọng hỏi: “Ân huynh, nếu đêm nay không có việc gì, hai người chúng ta họp mặt chỗ cũ được chứ?”
Ân Lê Đình biết Phó Thu Nhiên nhắc tới chuyện cũ thứ ba chưa kể xong bèn đáp ứng: “Đương nhiên được, Thu Nhiên huynh, mời.”
Hai người một trước một sau đi đến tiểu viện yên tĩnh hai lần trước uống rượu, chuyện trò. Đêm nay mười bốn, trăng tuy chưa tròn hẳn nhưng đặc biệt sáng. Sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ, hắt vào tiểu viện sáng như ban ngày. Phó Thu Nhiên rót hai chung rượu, đưa cho Ân Lê Đình hỏi: “Nghe nói hôm nay A Dao đưa Đàm đại phu và Âu Dương đại phu tới chỗ Kỷ cô nương?”
Ân Lê Đình gật đầu cười: “Mới rồi Tiểu Dao còn nói chuyện này với ta, nói là tìm cho Kỷ cô nương hai đại phu giỏi hiện thời.”
Phó Thu Nhiên nói: “A Dao làm việc luôn như thế, cứ suy tính một hòn đá ném trúng hai con chim, có lúc còn lòng tham không đáy, tính một đá ném ba chim luôn. Lúc Nhược Trường còn sống thường hay nói, đầu óc hai người chúng ta cả ngày chứa toàn ý nghĩ quỷ quái, chẳng bao giờ chịu ngưng.”
Ân Lê Đình nhớ nhiều lần Lộ Dao trầm tư sau đó từ từ rầu rĩ không vui, khẽ nhíu mày: “Không giấu gì Thu Nhiên huynh, có lúc ta lo một mình Tiểu Dao suy nghĩ, nghĩ nhiều quá ngược lại không vui vẻ.”
Phó Thu Nhiên nghe xong, bình tĩnh nhìn Ân Lê Đình nửa ngày, cuối cùng rũ mắt xuống, cất giọng xa xăm: “Ắt là huynh đã chứng kiến lúc A Dao nghĩ không thông. Ôi… A Dao rất hiếm khi như thế, chỉ là có lúc…” nói rồi than “Đó cũng là chuyện thứ ba ta muốn kể cho huynh nghe. Câu chuyện cũ này, sợ là huynh càng không ngờ tới.” Kế đó cười khổ, nhắm mắt lắc đầu.
Ân Lê Đình cũng nghiêm trang lại, hai chuyện cũ trước khiến chàng chạm dần đến những chuyện chàng không dám cũng không muốn hỏi Lộ Dao. Mà câu chuyện này được Phó Thu Nhiên xếp cuối cùng, xem ra cũng không đơn giản. Song lúc này lòng Ân Lê Đình rất thản nhiên “Bất luận là gì, đều đã là chuyện quá khứ, Phó huynh cứ nói là được.”
Lời Ân Lê Đình khiến Phó Thu Nhiên khá thư thái, cười với chàng rồi mới mở miệng.
“Sau khi Nhược Trường qua đời nửa năm, ta và A Dao mới hồi phục lại từ trận tai vạ đó. Rốt cuộc cơn nghiện của A Dao cũng cắt, thời gian này hai chúng ta gần như không ra ngoài, có thể nói là cách biệt với đời, lại thêm ta tốn không ít công sức che giấu tin tức, thành thử người ngoài không ai biết chúng ta gặp chuyện gì. Sau đó cuối cùng ta và A Dao cũng quay về y quán, tiếp tục làm đại phu. Mặc dù lúc đó cuộc sống vẫn đau buồn rầu rĩ như vũng nước tù nhưng cũng coi như bình thản. Nhưng sau khi chúng ta quay về y quán năm tháng, A Dao nhận được một phong thư. Lá thư đó, lại quậy cho cuộc sống của hai chúng ta gian nguy sóng gió lần nữa.
Nói rồi, Phó Thu Nhiên dừng lại, quay nhìn Ân Lê Đình, hỏi một câu chẳng liên quan gì: “Ân huynh, tuy huynh ngoài nghề nhưng cũng tiếp xúc với A Dao lâu rồi. Huynh cảm thấy A Dao làm đại phu có hợp cách không?”
Vấn đề tới đột ngột làm Ân Lê Đình có phần khó hiểu, song không hề do dự mà đáp: “Há chỉ hợp cách? Y thuật Tiểu Dao trác tuyệt, yêu người yêu nghề. Sư phụ và các sư huynh ta đều khen ngợi, ngay cả nhị ca rất ít khen ai cũng sùng bái y đức của nàng. Nếu nói Tiểu Dao không hợp cách, sợ là thiên hạ này chẳng có mấy đại phu tốt rồi.”
Phó Thu Nhiên nghe Ân Lê Đình nói thế, khóe môi nhếch lên thoáng nở nụ cười song cực kỳ chua chát. Hắn không bình luận lời Ân Lê Đình mà tiếp tục quay lại câu chuyện ban đầu: “Lá thư đó do một sĩ quan trong đám quân nổi dậy lúc Nhược Trường bị hại mạo hiểm viết cho A Dao, chỉ vì A Dao và Nhược Trường từng cứu mạng y. Trong thư, y tiết lộ nguyên nhân tử vong chân chính của Nhược Trường cho A Dao.”
Nói đến đây, Phó Thu Nhiên nhấc bầu rượu lên rót cho mình một chung, uống từng hớp một. Ân Lê Đình biết mỗi lần hắn nói đến chỗ khó giãi bày sẽ có thói quen đó, thế nên chàng ngồi yên không nói, trong lòng lại hơi căng thẳng.
Quả nhiên Phó Thu Nhiên uống cạn rượu trong chung xong, tiếp tục cất giọng khàn khàn: “Trong thư sĩ quan đó viết, lúc đó quân nổi dậy bắt giữ Nhược Trường, biết huynh ấy là đại phu cứu viện, vốn không muốn hại huynh ấy, chỉ muốn dùng huynh ấy làm con tin trao đổi với mấy huynh đệ bị thương phe mình. Vì thế viết một lá thư, phái người đưa đến trụ sở gần nhất của đại phu cứu viện. Nhưng quá thời hạn đàm phán cuối cùng mà quân nổi dậy quy định, bọn họ vẫn không thấy phía quân đội có động tĩnh gì, thậm chí ngày hôm sau còn phát động tập kich lần nữa. Bọn họ luống cuống tay chân, thương vong nặng nề, trong cơn giận dữ, bấy giờ mới… hại Nhược Trường.”
Ân Lê Đình nghe đến đó, chân mày chau chặt, không kềm được hỏi: “Vì sao quân đội không có động tĩnh? Không phải Cố huynh và Tiểu Dao qua lại khá nhiều với bên quân đội sao? Chẳng lẽ quân đội đứng nhìn Cố huynh sa vào tay địch thủ?”
“Không phải quân đội không đếm xỉa đến, nếu quân đội nhận được tin tức, chỉ riêng dư luận và lòng người ủng hộ hay phản đối thì họ cũng không thể khoanh tay, thật sự là lá thư đó căn bản không đưa đến tay quân đội!”
Ân Lê Đình sửng sốt mở to mắt, nghe Phó Thu Nhiên trầm giọng: “Lá thư đó được đưa đến trụ sở điều hành của đại phu cứu viện gần nhất, sau đó không đưa đến chỗ quân đội mà bị giữ lại. Người giữ lại thư, là chủ quản thượng cấp của Nhược Trường và A Dao tại trụ sở, cũng từng là một đại phu. Bởi vì hơn một năm này biểu hiện của Nhược Trường ở trụ sở rất tốt, y thuật y đức tiếng lành đồn xa, quan hệ lại tốt, vì thế khá có triển vọng thay thế vị trí của viên chủ quản vốn không được lòng người kia. Dù rằng Nhược Trường không có ý đó nhưng tên kia lại ghi hận trong lòng đã lâu. Lúc đó thư đưa đến tay lão, vậy là, lão khốn kiếp giấu thư đi, hoàn toàn không thông báo cho quân đội nơi đó. Thế nên mới khiến quân nổi dậy tưởng quân đội từ chối yêu cầu trao đổi tù binh mà hại Nhược Trường.”
Nói đến đây, Phó Thu Nhiên khó mà nhịn thêm nữa, đập bốp chung rượu ngọc xuống bàn đá, nháy mắt bể thành mấy mảnh. Nửa ngày, hận ý rực lửa trong mắt vẫn không tan đi.
Ân Lê Đình nghe đến đó, rùng mình nửa ngày không nói nên lời. Từ miệng Lộ Dao, chàng biết được cách làm người của Cố Nhược Trường, cho dù chưa từng gặp mặt song cũng cực kỳ khâm phục, không ngờ rằng một đại phu có tiết tháo có lễ nghĩa, học thức uyên bác lại ra đi như thế, trong lòng không khỏi thương tiếc.
Phó Thu Nhiên im lặng đủ một nén nhang mới tiếp tục kể: “Mấy chuyện đó, một phần do viên sĩ quan nghĩa quân kia viết thư kể cho A Dao, một phần khác sau khi ta và A Dao nhận được thư, tốn không ít công sức điều tra công khai lẫn âm thầm mà có. Sau khi tìm hiểu rõ ràng chân tướng sự việc, tâm tình của ta và A Dao đã không thể hình dung bằng hai chữ cuồng nộ nữa. Nhưng lão khốn kiếp đó ngày thường làm việc kín kẽ, chỉ dựa vào lá thư của viên sĩ quan trong mắt quân đội là phản quân kia, thật sự khó mà lấy làm chứng cứ lật đổ lão báo thù cho Nhược Trường. Ta và A Dao từng không cửa cầu cứu, trong lòng phẫn hận phát điên. Song lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, chưa tới ba tháng sau khi ta và A Dao biết chân tướng, ông trời cho chúng ta một cơ hội.” Nói rồi ngừng lại, hít hơi, tiếp tục nói: “Lão khốn kiếp ấy mới từ chiến trường trở về y quán thường trực thì gặp phải một tai nạn, vết thương không nhẹ, nội tạng xuất huyết mấy chỗ, là triệu chứng cực kỳ nguy hiểm. Vừa khéo, lão và những người bị thương khác cùng được đưa tới y quán của ta và A Dao. Tình hình lúc đó rất lộn xộn, người bị thương quá nhiều, đại phu không đủ, người tới người lui rối thành một nùi song A Dao vừa nhìn đã nhận ngay ra lão. Lúc ấy nàng lập tức gọi ta tới, ở trong phòng bệnh đơn tiếp nhận công tác cứu chữa lão khốn đó. Lúc này, do thiếu người nghiêm trọng, ta điều hai trợ thủ đi xong, ngoài ta và A Dao ra thì hoàn toàn không có ai khác ở đó. Chúng ta đứng trước giường lão ta, chìm sâu trong mâu thuẫn rối rắm. Trị bệnh cứu người là nguyên tắc cả Nhược Trường, A Dao, ta và tất cả đại phu thi hành, càng là niềm tin mà Lộ Dao nhất mực theo đuổi. Nhưng đối mặt với kẻ này, ta và A Dao cơ hồ hận tới mức thiếu điều muốn lột da uống máu. Trong tình huống cấp cứu đó, là một đại phu, muốn lấy mạng lão quả thật dễ như trở bàn tay. Triệu chứng loại này, chỉ cần nói cấp cứu vô hiệu, sau đó hơi động tay động chân là có thể khiến lão chết thần không biết quỷ không hay. Mà đó cũng là cơ hội duy nhất có thể báo thù cho Nhược Trường, bỏ qua rồi khó mà có lại. Vì thế, chính lần đó, ta và A Dao giãy dụa nửa ngày, hoàn toàn phản bội niềm tin bản thân vẫn luôn tôn thờ cùng với lời thề tuyên lúc thành đại phu, chỉ qua loa cho xong, hoàn toàn không thực hiện cấp cứu hữu hiệu nào, dễ dàng đoạt tính mệnh lão ta.”
Nói đến đây, Phó Thu Nhiên nặng nề thở ra, quay đầu nhìn thì thấy lông mày Ân Lê Đình nhíu chặt, không nói một tiếng, bèn nhếch môi: “Nếu nói cái chết của Nhược Trường là ác mộng cả đời ta và A Dao thì chuyện này là một con dao, luôn luôn chọc vào tim ta và A Dao. Năm xưa lúc chúng ta tu tập y đạo, tấm biển treo trên cửa sư môn viết “Phổ Thiên Đồng Tể, Bác Ái Thương Sanh”, tám chữ này chúng ta không ngày nào dám quên. Chuyện đó hai người chúng ta chưa từng hối hận nhưng mỗi lần nhớ lại câu ấy cùng niềm tin kiên trì bao nhiêu năm nay, ta và nàng ngày đêm không yên ổn. Sau sự kiện đó, mỗi lần khám bệnh cho bệnh nhân, với ta mà nói dường như lại muốn trình diễn chuyện đó lần nữa, lương tri chịu giày vò gấp bội, cực kỳ đau khổ. Thế nên không bao lâu sau, nhân một lần ngoài ý muốn, ta triệt để buông bỏ cái nghề đại phu này.”
Ân Lê Đình thấy Phó Thu Nhiên thở dài nhắm mắt, trong lòng nhất thời ngổn ngang trăm mối. Chàng từng nghe Lộ Dao nói y thuật của Phó Thu Nhiên không hề kém nàng, chỉ là không tiếp tục hành y mà thôi. Lúc đó chàng còn lấy làm kỳ quái vì sao Phó Thu Nhiên cũng chấp nhất như Lộ Dao lại không tiếp tục hành y nữa, không ngờ được còn có nguyên nhân như thế này. Song liền đó lòng chàng chùng xuống, mở miệng hỏi: “Vậy, Tiểu Dao nàng…”
Phó Thu Nhiên không đợi Ân Lê Đình nói hết đã biết chàng muốn hỏi gì, mở mắt khẽ than, nói nhỏ: “A Dao nàng không giống ta. Tuy nàng là nữ hài tử nhưng ở phương diện nào đó, nàng kiên cường dũng cảm hơn ta và Nhược Trường nhiều. Đối mặt với quá khứ kinh khủng như thế, Nhược Trường sẽ chọn cách quên đi, ta chọn trốn tránh còn A Dao nàng chọn đối mặt, chẳng sợ đằng sau những thứ ấy với nàng mà nói khó đối diện cỡ nào. Mấy năm nay, nàng luôn nhắc đi nhắc lại chuyện bản thân đã làm năm đó, hết lần này đến lần khác bóc trần vết thương xấu xí không chịu nổi kia, luôn luôn cảnh cáo mình phải trả món nợ đó, vì bản thân, cũng vì kẻ không có dũng khí lần nữa hành y như ta, nên nàng mới lập chí cả đời du lịch hành y, còn sống ngày nào tuyệt không lơ là. Tám chữ Phổ Thiên Đồng Tể, Bác Ái Thương Sanh kia, mấy năm nay ta không dám nghĩ tới, nhưng Lộ Dao khắc ghi tám chữ này trong lòng, cho dù mỗi lần nhớ đến đều bị giày vò.”
Bỗng nhiên Ân Lê Đình sực nhớ ngày đó trên núi Võ Đang, Lộ Dao từng chỉ vào Thiếu Lâm Viên Nghiệp nói tám chữ Phổ Thiên Đồng Tể, Bác Ái Thương Sanh này nàng không dám quên ngày nào, lúc đó chàng động lòng vì câu này song chưa hề nghĩ đằng sau đó lại có nhiều đấu tranh và vất vả đến thế. Trên Cô Sơn, Lộ Dao cũng từng khổ sở vì nhắc tới chủ định năm xưa học y, rơi vào tâm trạng khổ sở, gần như suy sụp. Lúc ấy chàng không hiểu được nguyên do, chỉ mong nàng dễ chịu đôi chút, bây giờ rốt cuộc cũng hiểu được khúc chiết trong đó.
“Mấy năm nay, A Dao chẳng những vì bản thân nàng, cũng là vì ta. Người khó đối mặt nhất chính là một mặt không chịu nổi của bản thân. Cho dù lòng ta có khát vọng cỡ nào song từ đầu chí cuối không có cách nào, không có dũng khí đối diện với quá khứ, càng khó làm đại phu lần nữa. Tuy ta không nói song A Dao hiểu, nàng nói với ta, chuyện này một mình nàng làm là đủ rồi. Vì thế nàng, một nữ nhân lại hành tẩu bốn phương, dãi nắng dầm sương, hoàn toàn không chỉ vì một chút chấp niệm hành y tế thế. Trên người nàng, gửi gắm toàn bộ giấc mơ và niềm tin năm xưa của Nhược Trường, của ta và bản thân nàng, còn để trả lại tội nghiệt mà ta và nàng phải trả, cho dù chúng ta chưa hề hối hận đã nợ món nợ đó. Điều ta có thể làm, chẳng qua là dốc toàn lực giúp đỡ nàng. Những thứ đó so với thứ nàng chịu đựng trong tim, gánh trên vai, không bằng một phần mười.” Nói xong, bỗng nhiên hắn nhìn Ân Lê Đình, ánh mắt soi thẳng vào đáy mắt chàng “Chuyện cũ bao nhiêu năm, bây giờ trên đời ngoài ta và A Dao không có người thứ ba biết. Hôm nay ta nói cho huynh nghe, là mong huynh, sau này năm rộng tháng dài, lúc cùng A Dao đi tiếp có thể khiến lúc nàng đối mặt với quá khứ, không còn cô đơn lẻ bóng. Tám chữ Phổ Thiên Đồng Tể, Bác Ái Thương Sanh, với nàng mà nói quá nặng nề, luôn nhắc nàng nhớ chúng ta đã vượt quá lằn ranh đạo đức y giả. Ta không muốn nửa đời còn lại của nàng sống với câu này, mà hi vọng nàng có thể sống theo ý thích của mình, giống như năm đó lúc Nhược Trường còn trên đời, cho dù vất vả nàng cũng vui vẻ. Bởi vì đời người không phải chỉ sống vì niềm tin mà càng vì người yêu thương.”
Nói đến chỗ này, trong mắt Ân Lê Đình lóe lên ngàn vạn tia sáng, mãi đến khi mát lạnh bình tĩnh như lưu ly trở lại, ấm áp động lòng người. Song được vài khắc, hai vai chàng run run, dường như nghĩ tới điều gì đó, hồi lâu mới nói khẽ: “Cố huynh với Tiểu Dao, như cha như anh, cũng là người yêu nhất, Lê Đình chỉ sợ đời này không thay thế được.” Nói rồi rũ mắt xuống. Từ ngày đầu tiên biết đến Cố Nhược Trường, chàng liền hiểu được với Lộ Dao mà nói, đời này sẽ đặt ba chữ ấy trong lòng. Vốn dĩ tâm trạng có chút chua xót nhưng sau khi biết được quá khứ của hai người, nó nhanh chóng biến thành cảm xúc phức tạp xen lẫn giữa cảm kich và chua xót. Nhưng mỗi lần nhìn đến ánh mắt sáng ngời của Lộ Dao thì đủ loại cảm giác ấy lập tức tan biến. Song suy cho cùng, đối với Lộ Dao, trong lòng chàng không nắm chắc.
Ai ngờ Phó Thu Nhiên nghe rồi lại cười, một tay vỗ vai Ân Lê Đình “Ai bảo huynh thay thế Nhược Trường nào? Ân Lê Đình là Ân Lê Đình, Võ Đang Ân lục hiệp. A Dao gọi huynh một tiếng lục ca mà không phải Nhược Trường. Tuy rằng có lúc A Dao không thông suốt nhưng không hề hồ đồ.”
Ân Lê Đình nghe thế bỗng ngẩng lên, vẻ mặt khó hiểu mang theo ba phần sửng sốt và sáng tỏ, ánh mắt sáng rực, nét mặt khẩn thiết, nghe Phó Thu Nhiên nói: “A Dao trừ hành y ra, xưa nay lười để tâm đến những chuyện rối rắm khác. Huynh nhìn công phu nửa mùa của nàng là biết. Nhưng bắt đầu từ cuối thu năm ngoái, trong phi cáp truyền thư giữa hai chúng ta, vô số lần nàng kêu ta làm việc này việc kia, từ nghe nóng tông tích Kỷ cô nương, đến thu thập hướng đi của các lộ giang hồ liên quan đến Đồ Long đao. Về sau thậm chí trực tiếp phái người đưa Kỷ cô nương đến Thu Linh trang, bây giờ thì vắt óc nghĩ cách đối phó Thành Côn. Nếu nói nàng thiết kế rửa sạch cho Trương ngũ hiệp là vì cảm động trước tình huynh đệ của các vị, vậy chuyện Kỷ cô nương thì sao? Chuyện Kỷ cô nương lúc ấy nàng đang ở Tuyền Châu, dịch chuột như lửa sém lông mày còn nhớ mãi không quên, chỉ bởi vì khi ấy nàng cho rằng huynh thích Kỷ cô nương. Đầu óc A Dao lanh lợi thì lanh lợi nhưng cũng có lúc ương bướng. Khi đó nàng nghĩ trước nghĩ sau dùm huynh như thế, có thể thấy tình cảm nàng dành cho huynh không giống bình thường. Cũng bắt đầu từ lúc đó ta mới chú ý đến huynh.”
“Phó huynh, này… Tiểu Dao nàng…” Ân Lê Đình nghe xong trái tim nhảy nhót, lại không biết nên rơi về đâu, nhớ đến chuyện hai người buổi sáng càng có chút luống cuống.
Phó Thu Nhiên nhìn hết trong mắt, cực kỳ buồn cười “Trong lòng A Dao phân biệt rất rõ, huynh là huynh, Nhược Trường là Nhược Trường. Nếu nàng không nhìn huynh với con mắt khác, sẽ kiên nhẫn để huynh đồng hành lâu như thế? Không thì sợ là nửa đường sớm đã hất cẳng huynh đi một mình rồi. Khoan nói chuyện khác, chỉ riêng vết thương trên tay huynh thôi, huynh biết A Dao bôi gì cho huynh không?”
Ân Lê Đình ngẩn ra, vô thức nhìn vết thương mình một cái, nghe Phó Thu Nhiên nói: “Chút thương ngoài da đó dùng kim sang dược là được rồi. Xưa nay A Dao ghét nhất là lãng phí dùng bậy dược liệu nhưng nàng bôi vết thương cho huynh là Tuyết Liên Ôn Cốt Giao hồi đó nàng tốn mấy tháng mới chế được một bình, dùng hết ba cành thiên sơn tuyết liên và không ít hỏa nhung thảo. Thứ đó chính nàng cũng tiếc không dùng, hôm nay lại bôi cho huynh hết nửa bình. Nếu không phải nàng đối xử với huynh khác biệt thì tức là hôm nay óc rút gân rồi.”
Ân Lê Đình kinh ngạc ngẩng đầu, hôm nay quả thật chàng cảm giác miệng vết thương hơi ngứa ngáy, cảm giác như lúc trước bị thương cần bảy tám ngày để vết thương khép miệng, còn tưởng mình nhầm, không ngờ là do hiệu quả của thuốc mà ra.
“A Dao ấy mà, có lúc thông minh vô cùng nhưng có lúc ngốc tới mức người ta tức điên. Bây giờ nàng đối với huynh như thế, sợ là chính nàng cũng chưa từng nghĩ vì sao. Thật ra, theo ta thấy, huynh có thể thổ lộ lòng mình với nàng.”
Ân Lê Đình nghe xong, thoáng cái tròn mắt, hai má đỏ bừng, nửa ngày tựa hồ mới ý thức ra điều gì, hơi giãn lông mày, nói cực nhỏ: “Phó huynh… ba chuyện huynh nói tất nhiên ta tin hết, nhưng có một việc, tiểu đệ mê hoặc đã lâu…”
Bỗng nhiên Phó Thu Nhiên giơ tay: “Ta biết huynh muốn nói gì. Xin lỗi, ta không thể nói đáp án cho huynh, chỉ có A Dao mới có thể. Nhưng ta có thể nói cho huynh biết, nếu có một ngày A Dao giải đáp thắc mắc này trong lòng huynh, vậy thì có lẽ, nàng thật sự yêu huynh rồi đó.”
Câu cuối cùng khiến tay Ân Lê Đình khẽ run, chung rượu rơi xuống đất lăn lạch cạch vài vòng, rớt tõm xuống hồ, dậy lên từng gợn sóng, xao động ánh trăng trên hồ.