Tuy Phạm Dao bị thương nặng nhưng công lực y thâm hậu, cộng thêm Lộ Dao đích thân chăm sóc, thuốc Thu Linh trang đưa tới toàn là thứ tốt nhất, vì thế bệnh tình ổn định lại rất nhanh. Trong thời gian này Phạm Dao chưa hề tỉnh lại, Lộ Dao không lo chỉ nói đến lúc nên tỉnh sẽ tỉnh. Lúc này Phó Thu Nhiên lên bắc chưa về, Lộ Dao nghe lời nói của phái Nga Mi ngoài cửa hôm đó cảm thấy sự việc không đúng, nên tính đợi Phạm Dao tỉnh lại hỏi rõ ràng sự việc. Nháy mắt đã tới mồng bảy tháng bảy.
Mồng bảy tháng bảy, tiết khất xảo, hay còn gọi là tinh kì, lan dạ. trong bài phú Thất Tịch của Vương Bột có câu: “Trữ linh thất vu tinh kỳ, quyến thần tư vu nguyệt tịch [52]”. Mỗi năm vào dịp này, nữ tử bất luận đã thành thân hay chưa có vị hôn phu đều lấy tơ ngũ sắc xỏ vào lỗ kim dưới trăng, để cầu Chức Nữ khéo tay may vá trong truyền thuyết được thông minh khéo tay. Đương nhiên, đối với đại đa số thiếu nữ chưa thành thân, ngày lễ này cũng là cơ hội tốt để cầu Chức Nữ cho nhân duyên tốt đẹp. Còn với phụ nữ đã thành thân thì mua búp bê, tượng sáp trẻ con về thả trên mặt nước, lấy ý “nuôi dưỡng” để cầu con. Ngày thất tịch, Lộ Dao một bên nghe đại thẩm bán chỉ ngũ sắc ở sạp hàng bên đường lải nhải, một bên cảm thán Chức Nữ này đúng là vất vả, nào là thành thạo nữ công nào là nhân duyên mỹ mãn, còn quản người ta sinh con; Ngọc Hoàng đại đế không cho nàng một thuộc hạ tài giỏi thật là có lỗi với nàng, hơn nữa một mình nàng làm phần việc của ba người, không biết có được lĩnh tới ba phần lương không.
Ân Lê Đình đứng bên cạnh nghe nàng lầm bầm lầu bầu, chân mày khóe môi đều toát lên ý cười.
Hôm trước, Tiền Úc ân cần nói cho hai người biết tối nay bên hồ Tây Hàng Châu có hội hoa đăng thâu đêm, hơn nữa còn một mực khuyến khích hai người đi xem. Vốn dĩ với Lộ Dao đi hay không đi cũng chả sao, nhưng nghe nói bậc thầy làm điểm tâm của Tứ Quý phường nổi tiếng nhất Giang Nam đầu năm nay sẽ trực tiếp làm điểm tâm bí truyền độc nhất vô nhị ở chợ hoa, thế là đứng ngồi không yên, mới sáng sớm đã kéo Ân Lê Đình đi ra ngoài. Ai dè tới chợ hoa mới biết hôm nay, đến tối sư phụ điểm tâm của Tứ Quý phường kia mới làm điểm tâm. Lộ Dao đặc biệt vác cái bụng rỗng đi, vừa nghe không có ăn lập tức nhăn mặt lầm bầm.
Ân Lê Đình biết, chỉ cần điều kiện cho phép, Lộ Dao rất cố chấp với việc ăn uống nhưng đây cũng là lần đầu tiên thấy Lộ Dao vì không được ăn mà giở tính trẻ con ra. Thế nên ở một bên góp lời: “Huynh thấy chỉ này đẹp quá, có muốn mua một ít về không?”
“Mua nó? Mua nó về làm gì?”
“Hôm nay khất xảo, muội không mua về tối xỏ kim à?”
Lộ Dao nhíu mũi, tỏ vẻ nhàm chán: “Khéo còn phải xin hả? Tài nghệ may da người của muội chắc chắn Chức Nữ đại nhân kém xa. Cái đó là phải rèn luyện mới có, đi đâu mà xin ra được?”
Ân Lê Đình bị nàng nói cho dở khóc dở cười: “Tiểu Dao, khất xảo này là xin thêu thùa may vá.”
Lộ Dao trề môi khinh khỉnh: “Thế thì có tác dụng gì? Chẳng lẽ còn bảo muội thêu hoa trên da người? Phải rồi, lần sau lục ca bị thương cần muội may dùm huynh, huynh muốn muội dùng mấy thứ chỉ xanh xanh đỏ đỏ này may không? Thuận tiện thêu uyên ương giỡn nước gì đó?”
Ân Lê Đình đã thấy nàng may vết thương cho Du Đại Nham và Mai Hàn Hề, dùng chỉ ruột dê màu trắng sữa. Vừa nghĩ đến nếu có ngày trên người mình may mấy thứ chỉ sặc sỡ xanh xanh đỏ đỏ này, lập tức cảm thấy đừng nói thì sáng suốt hơn.
Đại thẩm kế bên nghe Lộ Dao mở miệng ra là da người, chỉ cảm thấy đôi nam nữ trước sạp hàng của bà nhìn rất thanh tú xinh đẹp mà sao ăn nói khùng điên quá, bực mình lên tiếng: “Nếu hai người không mua thì tránh ra, điên điên khùng khùng làm trễ nãi lão nương buôn bán!” Nói rồi phẩy tay như đuổi ruồi xua hai người đi. Lộ Dao và Ân Lê Đình thấy bà ta biến sắc mặt như Xuyên kịch [53], thoáng cái đã hung dữ lên, mạnh ai nấy sờ mũi mình, cùng nhau chạy mất.
Hai người như đứa trẻ mới làm chuyện xấu, vừa chạy vừa cười, cứ như cười đến nghiện, không ngừng chân được, mãi đến khi chạy ra khỏi chợ, đến đê Bạch [54]gần đó mới dừng lại. Ân Lê Đình mặt không đỏ thở không nặng, ngược lại Lộ Dao chạy nhanh một hồi, hơi thở có phần loạn. Nàng kéo Ân Lê Đình, thở còn chưa bình ổn đã nhướng mày cười nhìn Ân Lê Đình: “Võ Đang thiếu hiệp bị một bà già mắng cho chạy trốn, không biết đồn ra ngoài Trương chân nhân có cảm thán sư môn bất hạnh hay không?” Ở bên Lộ Dao lâu ngày, ôn hòa hiền hậu như Ân Lê Đình miệng lưỡi cũng tiến bộ không ít, mỉm cười đáp: “Đại tiểu thư Thu Linh trang ở trên đất Giang Nam bị một bà già mắng cho chạy một hơi, Phó trang chủ mà biết không rõ có cảm thán gia môn bất hạnh chăng?”
“Hứ, năm đó muội và Thu Nhiên cùng một giuộc đấy, người nào gặp cũng quỷ khốc thần sầu, tên kia bị mắng còn nhiều hơn muội nữa! Lúc nhỏ đi học, thảy ếch và thằn lằn vô cặp của phu tử, hại phu tử suýt nữa ngất tại chỗ, bây giờ cái này đã thấm vào đâu so với năm ấy!” Nói rồi đắc ý lắc lư đầu.
Bây giờ Ân Lê Đình rất đồng tình Cố Nhược Trường, tuổi còn nhỏ đã phải chăm sóc hai kẻ dở hơi này, ắt hẳn rất vất vả. Chàng ngẩng đầu vỗ vỗ Lộ Dao, cười nói: “Được rồi, sắp tới trưa rồi, chúng ta đi ăn gì đã rồi đi tiếp, không lát nữa lại bị chủ sạp hàng đuổi đi.” Lộ Dao mà ăn uống không đầy đủ, sợ là há miệng ra lại đắc tội người ta.
Lộ Dao vỗ tay: “Vậy Lâu Ngoại Lâu đi!”
Ân Lê Đình hỏi: “Lại Lâu Ngoại Lâu nữa? Không phải hai ngày trước đã đi rồi?”
“Cá dấm Tây Hồ và măng xuân om mỡ của nhà đó ăn sao cho đã chứ? Huống chi…” Lộ Dao cười hì hì nhìn Ân Lê Đình “Chẳng phải dẫn huynh đi sao!”
Lộ Dao cực kỳ thích ăn cá dấm nhưng lại sợ phiền phức nhất, cảm thấy việc phải đi lựa từng cái xương thật là rầy rà, hoàn toàn quên béng lúc mình phẫu thuật còn tỉ mỉ phiền hà hơn lựa xương nhiều. Vì thế mỗi lần qua Hàng Châu, mấy lần muốn ăn món này đều thôi. Bất quá Ân Lê Đình lại hết sức nhẫn nại, lần trước hai người đi Lâu Ngoại Lâu, Ân Lê Đình gọi một dĩa cá dấm Tây Hồ. Lộ Dao vốn tính không ăn món này rồi, ai ngờ đồ ăn vừa lên, Ân Lê Đình chỉ quơ đũa mấy lần đã lựa xương ra sạch sẽ, còn lại từng miếng cá tẩm dấm tươi ngon trắng mịn đều đặn thơm lừng. Lần này Lộ Dao sướng rơn, không khách sáo ăn thỏa thích, vừa ăn vừa khen tay nghề lựa xương cá của Ân Lê Đình. Ân Lê Đình cười nói lúc nhỏ chàng và Trương Thúy Sơn, Mạc Thanh Cốc chui ra sau núi Võ Đang bắt cá dưới đầm băng nướng ăn. Hai người kia đều lười lựa xương, vì thế lần nào cũng là Trương Thúy Sơn bắt cá, Mạc Thanh Cốc nướng, còn chàng chuyên môn phụ trách lựa xương. Làm riết thành quen, luyện ra tay nghề thế này. Lộ Dao vừa nghe vừa cảm thán cái gọi là người trước trồng cây người sau hóng mát, năm đó sư huynh đệ họ chơi đùa, bây giờ người hưởng ân huệ là nàng.
Giờ Ân Lê Đình thấy dáng vẻ cười gian trá đánh giá chàng của Lộ Dao, lập tức biết ngay ý đồ của nàng, nói: “Đi thôi, trước khi rời Hàng Châu cho muội ăn cá dấm Tây Hồ đủ mới thôi.”
Lâu Ngoại Lâu nằm bên Tây Hồ, dựa lưng vào Cô Sơn, quay mặt ra Tây Hồ, lầu hai bốn mặt đều mở cửa sổ, non sông tươi đẹp thu hết vào tầm mắt. Lúc này ánh nắng ấm áp, hắt lên mặt hồ sáng lấp lánh như ngọc. Hai người kiếm chỗ dựa vào bên mặt hồ ngồi xuống, chọn món, tiểu nhị nhanh nhẹn bưng bốn món lên một lượt: cá dấm Tây Hồ, măng xuân om mỡ, thịt sốt mật ong và canh rau nhút Tây Hồ. Lộ Dao khâm phục nhìn Ân Lê Đình một tay cầm đũa, hơi vận nội lực vào đầu đũa, nhanh chóng lựa từng cái xương lớn nhỏ từ trong thịt cá mềm mềm ra, cả quá trình thật là đẹp mắt. Lộ Dao gắp một miếng cá cho vào miệng, thỏa mãn than thở, thưởng thức dư vị hồi lâu mới mở mắt ra, trong mắt đầy ắp ý cười: “Lục ca, sau này lúc muội đi du lịch bốn phương hành y tế thế mà dẫn huynh đi cùng, vậy thì cuộc đời quá đẹp rồi!”
Ân Lê Đình nghe xong, đầu tiên ngẩn ra, liền đó mặt lập tức đỏ như gấc, giống như vừa uống rượu say nhưng đáy lòng thì dâng trào vui sướng trong nháy mắt, tỏa ra hương vị còn đậm đà hơn rượu ủ nhiều năm. Câu nói “vậy huynh cùng muội đi du lịch bốn phương hành y tế thế cả đời là được” mấy lần chực thoát ra khỏi miệng. Lúc này Lộ Dao chợt hiểu ra mình vừa nói gì. Dẫu da mặt nàng dày mấy cũng chỉ là thờ ơ đối với mấy chuyện ngồi lê đôi mách của người khác, nhưng câu vừa rồi là do nàng nói, nhất thời cũng cảm thấy hình như rất mập mờ, thành thử cũng hơi ngượng. Có điều Lộ Dao không như Ân Lê Đình, người kia hễ thẹn thùng xấu hổ lên xưa nay luôn cúi đầu đỏ mặt không nói, còn tính Lộ Dao thì, lựa chọn giả ngu. Bởi vậy, Lộ Dao ra sức sờ mũi mình, bắt đầu gắp đồ ăn vào chén Ân Lê Đình liên tục, còn vội vàng đổi chủ đề. Ân Lê Đình nhìn dáng vẻ Lộ Dao, trái lại không đỏ mặt nữa, dường như nhìn thấy thứ gì mới mẻ vậy, lặng lẽ quan sát Lộ Dao một mình tự hỏi tự đáp, nói chuyện liến thoắng. Bữa cơm này trừ gắp cá đầu tiên của Lộ Dao ra, hai người ăn mà hồn để đâu đâu.
Sau bữa cơm, cả hai đều no căng lại không muốn quay về, vì thế đi lên Cô Sơn dạo. Lúc này trên Cô Sơn cây cối rậm rạp, nước chảy róc rách, cực kỳ mát mẻ sảng khoái, chim hót ríu rít êm tai vô cùng. Hai người đều còn mãi suy nghĩ chuyện vừa rồi, vì thế nhất thời không ai lên tiếng, mãi đến lúc ngoặt qua một con đường núi, trước mặt bỗng dưng mở ra một khoảng đất trống, giữa đám dây leo bụi cỏ có một tấm bia mộ, một bên tấm bia có mấy gốc hoa mai. Bia mộ khá lâu đời, giữa sắc xanh biếc hiện rõ nét cổ xưa. Lộ Dao chợt xúc động, đi tới trước cẩn thận quan sát chữ khắc trên bia, tuy đã lâu năm, bị thời gian bào mòn nhưng chữ trên đó nhìn còn khá rõ: “Lâm Hòa Tĩnh [55] cư sĩ chi mộ”, nét chữ sắc bén nội liễm, có ba phần thanh thoát xuất trần. Ân Lê Đình tán thưởng: “Chữ đẹp!”
Lộ Dao không hiểu thư pháp nhưng danh nhân Lâm Hòa Tĩnh thì nàng biết. Nơi này, giờ này, nhìn mộ phần ông, nàng hơi cảm khái: “Trước mặt hai đê Tô Bạch người tới người lui, sau khi chết Đông Pha, Lạc Thiên [56] phong cảnh ngời ngời, vượt xa lúc sinh tiền. Chỉ có Lâm Hòa Tĩnh ngược lại chiếm nơi đất trời thanh tịnh này, trước và sau khi chết đều chỉ có mấy cành hoa mai làm bạn.”
Ân Lê Đình nói: “Đông Pha và Lạc Thiên tuy chìm nổi chốn quan trường nhưng lại có ơn với dân. Ngoài đắp hai đê Tô Bạch, khơi thông đáy hồ nạo vét bùn sình cho nước trong xanh ra còn đào hào dẫn nước đề phòng lũ lụt, khoan nói tới công tích khi đương chức, chỉ riêng hai việc này thôi đã có ơn với không ít bá tánh Hàng Châu rồi.”
Lộ Dao khẽ gật đầu nhưng lại than thở: “Nói như thế cũng có đạo lý. Có lẽ Đông Pha và Lạc Thiên cố chấp ra làm quan, vì cũng không cảm thấy quan trường vô thường là khổ, còn Lâm Hòa Tĩnh chỉ ưa một mình trồng mai ẩn dật nơi núi rừng cũng không cảm thấy tịch mịch. Trong lòng mỗi người đều có cuộc sống lý tưởng nhất của mình, rất nhiều lúc người ngoài không thể hiểu được.” Nói rồi bỗng nhiên nhìn Ân Lê Đình cười hỏi: “Lại nói lục ca, cuộc sống huynh mong muốn nhất là gì? Hành hiệp trượng nghĩa xông xáo giang hồ?”
Ân Lê Đình nghe Lộ Dao hỏi chàng cũng thoáng ngây người, suy tư một lát đáp: “Nếu nói hành hiệp trượng nghĩa thì đại ca nhị ca có thể đảm đương, huynh thì không dám nhận. Gia đình huynh vốn là một thương gia giàu có ở Hà Bắc. Năm huynh ba tuổi, bị quân Nguyên cướp bóc tàn sát, người trong nhà toàn bộ gặp nạn, chỉ có huynh được mẫu thân giấu trong lu nước ở hậu viện là thoát được một kiếp. Năm đó huynh mới ba tuổi, rất nhiều chuyện còn chưa hiểu, đợi chui từ trong lu ra thì cả nhà đã bị đốt thành tro bụi. May mắn là huynh lưu lạc đầu đường không tới hai ngày thì gặp được sư phụ, sau đó được sư phụ đưa lên Võ Đang nhận làm đệ tử. Mãi đến năm mười tuổi, sư phụ phái đại ca nhị ca đưa huynh về quê nhà Hà Bắc điều tra chuyện năm xưa mới rõ ràng đầu đuôi ngọn ngành. Thì ra lúc ấy tên quan Nguyên kia tham gia tài nhà huynh nên mới… sau khi biết chuyện, với huynh mà nói, trượng nghĩa hành hiệp xông pha giang hồ không phải ý nguyện, nếu có thể bảo vệ được người đáng bảo vệ là đạt được nguyện vọng rồi.”
Lộ Dao không ngờ Ân Lê Đình lúc còn nhỏ cũng gặp phải chuyện éo le như thế, không kềm được nhẹ nhàng vỗ vỗ bờ vai cao ngang đầu nàng, giống như an ủi trẻ con vuốt tóc chàng nhè nhẹ, nói: “Chuyện đã qua lâu rồi, lục ca, huynh đừng khổ sở nữa…”
Ân Lê Đình thấy Lộ Dao vuốt tóc mình như vuốt lông thú con, buồn cười nhưng có phần cảm động, mỉm cười nói: “Bây giờ nghĩ lại cũng không khổ sở lắm. Cũng giống như muội vậy Tiểu Dao, tuy là cô nhi nhưng cũng nhờ thế duyên số run rủi có hai người bạn chí cốt thân thiết Cố Nhược Trường và Phó Thu Nhiên. Huynh cũng thế, cơ duyên đưa đẩy gặp được sư phụ, thu nhận vào cửa, nuôi nấng huynh trưởng thành, dạy huynh võ nghệ, như cha như mẹ, các sư huynh từ nhỏ chăm sóc yêu thương huynh như huynh trưởng ruột thịt, không phải là trong rủi có may sao?” Dứt lời chàng chợt giật mình, chàng nhắc đến Cố Nhược Trường sợ nàng nghĩ lại đau lòng, bèn đổi đề tài: “Lộ Dao, muội từng nói muốn du lịch tứ xứ hành y tế thế, chắc đó là ước mơ trong đời muội?”
Ai ngờ Lộ Dao nghe xong cũng trầm mặc, còn lâu hơn cả Ân Lê Đình nữa. Chàng thấy thần sắc nàng mơ hồ, ánh mắt ngày thường sáng rỡ lúc này như phủ một lớp sương mờ, khiến nàng dường như từ từ cách chàng rất xa, rất xa. Lòng chàng dấy lên nỗi sợ không tên, vươn tay nắm chặt cánh tay Lộ Dao, gọi: “Tiểu Dao? Tiểu Dao?”
Tiếng gọi này kéo Lộ Dao ra khỏi dòng suy tưởng, thấy Ân Lê Đình nóng ruột, Lộ Dao cười gượng, nói: “Không sao, muội chỉ nghĩ đến chuyện rất xưa thôi.” Nói rồi nắm tay Ân Lê Đình kiếm bậc đá ngồi xuống, nhỏ nhẹ: “Thật ra nguyên nhân ban đầu khiến muội học y không khác lục ca bao nhiêu. Huynh biết đó, muội cũng là cô nhi, cha mẹ đều mất trong một trận động đất. Lục ca biết động đất chứ?”
Ân Lê Đình nghe hai chữ “động đất” khẽ giật mình, nhẹ nhàng gật đầu.
Lộ Dao nói tiếp: “Huynh ba tuổi thì mất cha mẹ, còn chưa hiểu chuyện. Nhưng năm muội gặp động đất thì lớn hơn huynh nhiều lắm. Lúc đó muội và cha mẹ bị vùi dưới một đống gạch ngói, chờ mong có người đến cứu. Khi ấy cha mẹ muội đều bị thương nặng, chỉ có muội còn nhỏ, bị thương ngoài da mà thôi. Muội chờ lâu lắm, trơ mắt nhìn cha mẹ dần dần không xong. Nếu khi đó có đại phu, có lẽ cha mẹ muội có thể qua được. Nhưng mà không có, muội chỉ biết trơ mắt nhìn họ lần lượt hôn mê, chỉ biết khóc lớn. Đến cuối cùng, mẹ muội ôm muội, cứ mãi dặn muội sau này phải tự chăm sóc mình cho tốt, giọng càng lúc càng yếu, cuối cùng cũng không tỉnh lại nữa. Mãi sau đó muội mới được người tới cứu viện đào lên. Muội học y thật ra là không hi vọng tương lai nhìn người muội quan tâm từ từ chết đi trước mặt mình nữa, ít nhất, muội có thể làm được điều gì đó mà không phải trơ mắt nhìn. Nếu nói ước mơ trong đời muội, kỳ thật muội hâm mộ cuộc sống bình yên của Lâm Hòa Tĩnh, nhưng muội làm không được. Gặp chuyện mà muội không làm gì cứ cảm thấy bất an, nhất định phải nhìn tận mắt làm tận tay mới yên tâm được. Muội biết khi gặp chuyện mình thường phản ứng quá mức, mới đầu muội còn không chịu thừa nhận, nhưng sau này… sau này…” Lộ Dao nói đến đó, chuyện năm xưa lần lượt hiện ra trước mắt, tâm tình bỗng dưng mạnh mẽ hẳn lên “Sau này muội cảm thấy quá mức thì quá mức đi, nếu có thể bảo vệ được người muội yêu quý, quá mức thì đã làm sao? Nhưng cho dù là thế… cho dù là thế… đến cuối cùng chẳng qua phát hiện người mà mình muốn cứu nhất lại thường không cứu được!”
Ân Lê Đình thấy mắt Lộ Dao thoáng tia máu, căng thẳng, phát hiện dường như tâm tình nàng lại chìm đắm không tự thoát ra được như cái tối ở Tuyền Châu, không để tâm đến ý Lộ Dao muốn nói, chàng chuyển qua ngồi trước mặt Lộ Dao, đặt tay lên hai vai nàng “Tiểu Dao? Không sao rồi, đừng nghĩ nữa. Những chuyện đó đã qua hết rồi, bây giờ muội là đại phu giỏi nhất, từ giờ trở đi sẽ không có chuyện như thế nữa.”
Ánh mắt Lộ Dao hỗn loạn, nhìn Ân Lê Đình: “Sẽ không có? Thật không có nữa sao? Lúc muội vừa trở thành đại phu cũng cho rằng chuyện như vậy sẽ không xảy ra nữa. Nhưng không được. Về sau kinh nghiệm của muội càng lúc càng tăng nhưng vẫn không được… người nên đi thì vẫn cứ đi, không ai giữ lại được lâu…”
Ân Lê Đình vuốt tóc Lộ Dao, dịu dàng nói: “Không đâu, Tiểu Dao muội nghĩ nhiều quá rồi. Chuyện quá khứ đã qua rồi, sau này sẽ không như trước nữa. Tiểu Dao, tứ ca nói muội cực kỳ thông minh, người bình thường không bì kịp. Nhưng muội cứ thích một mình suy nghĩ, có lúc càng nghĩ sự việc càng lệch hướng, mà càng lệch hướng thì càng dễ dẫn tới nghi ngờ. Sau này nếu muội nghĩ không ra nguyên nhân, thế thì đừng ngại nói ra. Có rất nhiều sự việc, một khi nói ra, không cần người khác gợi mở, tự bản thân muội có thể bình tĩnh, nhận định sự việc một lần nữa.”
Lộ Dao có phần hoang mang “Nói ra?”
Ân Lê Đình mỉm cười vuốt tóc nàng “Phải đó, nói ra. Lúc huynh còn nhỏ, hễ không vui thì nói với các sư huynh. Nói ra rồi trong lòng liền dễ chịu, vài ngày sau chuyện không vui đều quên hết. Nghĩ không ra chiêu thức nào đó, sư phụ liền bảo huynh kể lại chi tiết chỗ không rõ, có lúc huynh đang nói đến chỗ đó, bỗng dưng tự mình nghĩ ra được rồi! Sư phụ chỉ cười không nói gì.”
Lộ Dao nhớ tới trước kia, lâu lắm rồi, lúc mình còn là một đứa bé, mỗi lần không vui liền chạy tới bên Cố Nhược Trường, có chuyện gì buồn bực đều lôi ra kể hết. Lúc đó Cố Nhược Trường cũng nhìn nàng như bây giờ, yên lặng nghe đứa bé là nàng nổi cáu, lúc nàng giậm chân tức tối liền cười dỗ dành nàng, chọc nàng vui. Từ bao giờ, cảnh ấy một đi không trở lại, chỉ có nàng và Phó Thu Nhiên nhìn nhau không nói, lặng lẽ giúp đỡ nhau.
Nhìn Ân Lê Đình lẳng lặng mỉm cười ấm áp dịu dàng với mình, Lộ Dao không kềm nổi lòng mình vùi mặt vào ngực chàng, hai tay ôm lấy eo chàng. Ân Lê Đình nhè nhẹ vỗ lưng nàng, chàng không biết liệu có phải Lộ Dao nhớ tới Cố Nhược Trường mới khổ sở như thế chăng, cũng không còn sức lực để ý, chỉ hi vọng nàng dễ chịu hơn một chút, không chìm đắm vào những chuyện cũ không vui như ban nãy nữa. Nhất thời, bên sườn Cô Sơn, trong sắc cỏ khói mây, hai bóng người dựa vào nhau, ngay cả tiếng chim ríu rít cũng trở nên êm ái, gió nhẹ hất vạt áo hai người lên, không một tiếng động, tình cảm êm đềm quyến luyến trong cảnh non sông gấm vóc ngày hè.
Lộ Dao cảm thụ cơ thể ấm áp của Ân Lê Đình, hơi thở chậm rãi điều hòa, cùng với mùi thơm nhè nhẹ trong lành mát mẻ trên người, tâm tình kich động rối loạn ban nãy từ từ ổn định lại, cảm thụ hơi thở mình dường như cũng đi theo hơi thở chàng từ từ thong thả, khiến người ta thấy an tâm. Hồi lâu, nàng vẫn vùi mặt trong ngực Ân Lê Đình, rầu rĩ lên tiếng: “Lục ca, xin lỗi, tại muội nhớ đến vài chuyện không vui thôi.”
Ân Lê Đình gõ đầu nàng, dịu dàng nói: “Bất luận là gì, không cần nghĩ nữa, sau này sẽ không có nữa đâu.”
Lộ Dao ngẩng đầu nhìn ánh mắt dịu dàng đầy ý cười của Ân Lê Đình, gật mạnh đầu như để khẳng định “Ừ, chắc chắn sẽ không có nữa.”
“Đi tới phía trước nữa chắc là đình Phóng Hạc. Huynh nghe tứ ca nói, từ hướng đông bắc đình Phóng Hạc có thể nhìn thấy tháp Bảo Thúc ở đằng xa. Có câu Tây Hồ hai tháp, Lôi Phong như lão tăng, Bảo Thúc như mỹ nhân. Tiểu Dao, nếu chỉ ngắm Lôi Phong mà không ngắm mỹ nhân có phải đáng tiếc lắm không?”
Lộ Dao biết Ân Lê Đình muốn dời sự chú ý của nàng đi, vì thế khẽ gật đầu “Lục ca…”
“Nào, đi thôi!” Ân Lê Đình không đợi nàng nói, mỉm cười dắt tay nàng đi tới đình Phóng Hạc.
Hai người xuống Cô Sơn thì trời đã nhá nhem tối. Lúc này hội hoa đăng bên bờ Tây Hồ vừa mới bắt đầu, các sạp hàng bên hồ nối nhau mở cửa. Ân Lê Đình biết cách làm Lộ Dao vui nhất chính là mấy món ăn vặt của Giang Nam, vì thế hai người bắt đầu dạo từ đầu chợ, hết hàng này đến hàng khác, mỗi hàng chỉ ăn một chút vậy mà đi cũng không hết sạp hàng. Bánh trôi cơm rượu, thạch hoa mai, đậu phộng ngào sữa, bánh hoa quế đủ chủng loại. Đi một chuyến này, quả nhiên tâm tình Lộ Dao khá hẳn lên. Đi dạo đến hàng điểm tâm của Giang Nam Tứ Quý phường, đuôi mày khóe mắt Lộ Dao đã rộ ý cười, đến người xưa giờ không ham ăn vặt như Ân Lê Đình cũng không thể cưỡng lại mùi vị của những món điểm tâm Giang Nam này. Vì thế gần như mỗi hàng hai người đều mua không ít, mua cả một túi lớn cho Ân Lê Đình xách, còn Lộ Dao vừa đi vừa ăn, ngó nghiêng khắp nơi ngắm hoa đăng hiếm hoi lắm mới được thấy vào đêm thất tịch.
Đêm thất tịch, không chỉ có hàng ăn, còn có hàng thêu tay trang sức thật đẹp, hàng son phấn, thậm chí hàng tranh đồ cổ. Những thứ này cả hai người đều không có hứng thú, song có một loại mà cả hai cùng không kềm được muốn đi xem là thả hoa đăng trên hồ. Thất tịch mỗi năm, Hàng Châu đều có chợ đêm hoa đăng. Chợ đêm thì khỏi cần nói, nhưng hoa đăng thì đáng xem lắm. Mỗi dịp thất tịch thế này, nữ tử bất luận là đã thành thân hay chưa đều đi mua một cuộn giấy màu xếp thành đèn hoa sen, đốt tim đèn lên, viết tâm nguyện của mình vào giấy thả trong đèn, mặc nó trôi theo dòng nước. Tương truyền làm như thế, tâm nguyện sẽ thành sự thật. Khoan nói chuyện ngàn vạn tâm nguyện kia có thành hay không, chỉ riêng mặt Tây Hồ sáng rực trong đêm, trăm ngàn chiếc hoa đăng đủ hình dáng lơ lửng, đèn hoa sen hồng phấn tím nhạt, hắt bóng liễu rủ bên hồ dưới ánh trăng như khói, bóng đèn lênh đênh giao hòa với ánh sao trên trời, dường như người đang chìm trong mộng ảo.
Lúc này trăng mới đầu non, chợ đêm người đến người đi, tiếng đàn sáo êm tai văng vẳng đằng xa. Trước sạp đèn hoa sen đông nhất, Ân Lê Đình và Lộ Dao nhìn những chiếc đèn hoa sen đẹp mắt.
“Tiểu Dao? Muội thích cái nào? Huynh tặng muội nhé?” Ân Lê Đình cười hỏi.
Lộ Dao nhìn Ân Lê Đình. Vốn dĩ trước giờ nàng không tin mấy thứ này, luôn cho rằng nếu có mong ước gì thì tự mình đi mà thực hiện, Cửu Thiên Huyền Nữ cũng được, Thái Thượng Lão Quân cũng thế, ai rảnh đâu mà đi quản mi? Có điều bỗng nhiên nhớ tới chuyện lúc trưa, chợt động lòng, lướt mắt qua từng chiếc giá treo đen, dừng lại ở một chiếc đặc biệt khác lạ nằm trong góc. Chiếc đèn này không giống những đèn hoa sen to mà rực rỡ kia, hai đóa sen nho nhỏ một trắng một tím kết với nhau, bên dưới đính thêm mấy chiếc lá sen xanh biếc, nhìn hết sức thanh nhã. Ân Lê Đình thấy ánh mắt Lộ Dao dừng trên chiếc đèn kia, nhẹ nhàng cầm lấy đưa cho nàng. “Cái này?”
Tiểu nhị vội vàng chạy tới nói “Công tử thật có mắt nhìn, chiếc đèn này là cái độc nhất vô nhị trong chợ hoa đăng năm nay đó.”
Lộ Dao cầm đèn trong tay cũng cảm thấy đặc biệt dễ thương, cười tươi roi rói.
Ân Lê Đình nhìn sắc mặt Lộ Dao, biết chiếc đèn này rất hợp ý nàng, vì thế trả tiền ngay lập tức, cầm giấy bút để kế bên sạp cho khách sử dụng đưa cho nàng. “Nhập gia tùy tục, muội cũng viết một tâm nguyện lên đi.” Lộ Dao nhận lấy, viết một hàng chữ trên giấy, xếp tỉ mỉ bỏ vào khe hở dưới tim đèn, cười nói: “Đây là lần đầu tiên muội làm loại chuyện cầu nguyện thế này đấy, không biết có linh hay không nữa.”
Ân Lê Đình nói: “Chắc chắn là linh rồi, nếu không sao lắm người tới thả đèn đêm thất tịch chứ?”
Lộ Dao khịt mũi cười: “Được rồi, thử tin một lần vậy. Chẳng mấy khi tin một lần, nếu không linh thì không nể mặt muội gì cả.” Nói rồi cùng Ân Lê Đình đi ra bờ hồ. Lúc này ánh trăng vừa đẹp, trong hồ đã có vô số hoa đăng lững lờ, dập dềnh theo mặt nước, hắt sáng lấp lánh trên mặt hồ. Mặt nước Tây Hồ rộng mênh mông, từng chiếc đèn hoa sen lấp lánh ánh sáng hồng phấn tím nhạt, hòa với ánh sao trên cao, như những mảnh ngọc rơi xuống mặt hồ, làm cả mặt hồ sáng rực trong đêm.
Lộ Dao nhẹ nhàng đặt đèn hoa sen đã thắp xuống mặt nước, nhìn nó từ từ trôi theo dòng, lắc lư chậm rãi rời bờ. Bỗng nhiên nàng có cảm giác kỳ diệu. Dường như tâm trạng vẫn luôn căng thẳng từ lúc ở Cô Sơn tới giờ đột nhiên buông lỏng, nhẹ nhõm không nói nên lời. Vì thế, trong lơ đãng, nụ cười nơi khóe môi theo cơn sóng đẩy đèn hoa ra xa lặng lẽ nở rộ. Ân Lê Đình đứng bên cạnh nàng, nụ cười từ từ bừng sáng của nàng rơi hết vào trong mắt chàng. Nụ cười đó rất khẽ, nhưng ý vị trong đó lại khiến lòng Ân Lê Đình lay động, tay phải kề bên người Lộ Dao động đậy mấy lần, e dè, nắm lấy bàn tay trái lành lạnh của Lộ Dao. Chàng chỉ cảm thấy bàn tay này nhỏ hơn tay mình rất nhiều, làn da mềm mại láng mịn, không nhịn được đưa ngón tay mình nhẹ nhàng lướt qua. Lộ Dao đang mơ màng trong ánh đèn lấp lánh trên mặt hồ xa xa, cảm giác tay mình chợt ấm, lòng thoáng giật mình. Cảm giác ấm áp này không nóng cháy, không kịch liệt mà nhẹ nhàng, êm ái bao bọc lấy tay nàng, dường như nhiệt độ cơ thể ấm áp thâm nhập vào cơ thể nàng từng chút một, bao trùm làn da, thậm chí hơi thở. Lộ Dao chần chừ một chút, rốt cuộc không nỡ bỏ qua cảm giác ấm áp khiến người ta than thở này, cơ hồ trước khi đầu óc kịp phản ứng, tay trái đã nắm lại tay Ân Lê Đình, cảm thụ lòng bàn tay có một lớp chai dày vì thường xuyên luyện kiếm của chàng, gần như thành kính cọ xát với lòng bàn tay mình. Nháy mắt, suy nghĩ của Lộ Dao cũng theo ánh đèn dần trở nên mơ hồ, chìm đắm trong không khí lưu luyến nhàn nhạt. Hai người đứng sóng vai nhau, không ai muốn cử động, cũng không hề lên tiếng, cứ như thế nhìn hoa đăng càng lúc càng nhiều, bên cạnh người tới người đi như nước. Đã bao lần hai người cũng nắm tay nhau thế này, nhưng lần đầu tiên, Lộ Dao cảm thấy có gì đó không giống. Cảm giác loạn nhịp không tên lặng lẽ xâm chiếm tâm thần nàng, khiến nàng không cách nào suy nghĩ vấn đề này.
Mãi đến khi trăng lên giữa trời, gió đêm nổi lên, Ân Lê Đình mới sực nhớ hôm nay Lộ Dao mặc áo vải sô trắng cực mỏng. Bấy giờ đêm dần lạnh, bên hồ gió lớn, bèn nói nhỏ: “Tiểu Dao, chúng ta về thôi, muội coi chừng lạnh.”
Lộ Dao hãy còn mê man trong cảm giác huyền ảo như mơ không chân thật vừa rồi, hình như không nghe Ân Lê Đình nói gì, mờ mịt nhìn chàng.
Ân Lê Đình nhìn vẻ mặt mù mờ chẳng mấy khi có được của Lộ Dao, không nhịn được cười khẽ, buông bàn tay đang nắm tay Lộ Dao ra, cởi lớp áo ngoài màu xanh nhạt của mình khoác lên người nàng. Tay Lộ Dao chợt lạnh, thoáng cái đã ấm trở lại vì Ân Lê Đình lại dắt tay nàng, hai người cứ thế đi về phân hiệu Thu Linh trang. Dọc đường đi, Lộ Dao yên lặng mặc Ân Lê Đình dắt, hai bàn tay một lớn một nhỏ đan vào nhau. Đây là đoạn đường yên tĩnh nhất trong vô số đoạn đường hai người đã đi chung với nhau từ đó đến giờ. Chỉ bởi vì cả hai đều đang tinh tế cảm thụ nhịp tim và mạch đập của mình dường như đang từ từ hòa hợp bởi hai bàn tay giao nhau. Ân Lê Đình thầm mong con đường này có thể dài thêm một chút, còn Lộ Dao cũng mặc cho tâm tư, tinh lực của mình giờ phút này lan tỏa trong không khí như mùi vị cỏ xanh đêm hè.
Cứ như thế, đoạn đường không dài chẳng biết bị hai người đi bao lâu, đợi hai người đứng trước cửa phòng ngủ Lộ Dao thì trăng đã ngả về tây. Lộ Dao đứng trên bậc thang, nhìn Ân Lê Đình, ánh trăng hắt trên gương mặt tuấn tú tao nhã của chàng, không biết là ánh trăng làm mềm vẻ mặt chàng hay là nụ cười của chàng hòa vào ánh trăng.
“Ngày mai muội còn châm cứu cho Phạm tiên sinh nữa, mau đi nghỉ đi.” Ân Lê Đình nói.
Lộ Dao gật đầu, cuối cùng khẽ khàng buông tay chàng ra, quay lưng đẩy cửa. Nhưng ngay lúc đó nàng quay người lại, thấy Ân Lê Đình vẫn đứng nguyên ở đó nhìn mình, bỗng nhiên bàn tay đóng cửa không sao đóng được nữa. Đứng thế hồi lâu, nàng chớp mắt “Lục ca, muội đi vào…”
Ân Lê Đình gật đầu nói khẽ: “Huynh về đây, muội ngủ ngon nhé.” Nhìn Lộ Dao đóng cửa rồi, chàng mới chậm rãi quay người đi ra khỏi viện. Không muốn về phòng, vì thế chàng đứng ngoài cánh cửa vòm rủ đầy trường xuân, đứng nguyên cả đêm lưu luyến không về.
Bên này Lộ Dao bồn chồn đi rửa ráy, nằm trên giường nhìn ánh trăng hắt qua cửa sổ chiếu vào phòng, phòng ốc sáng mờ mờ. Đầu óc Lộ Dao toàn là hình ảnh ánh đèn trên Tây Hồ và bóng đêm dịu dàng quyến luyến, âm thầm suy nghĩ vì sao lúc Ân Lê Đình buông tay mình ra, cảm giác lành lạnh khi ấy lại khiến mình có chút mất mát? Lúc chàng nắm tay mình lần nữa, cảm giác ấm áp kia khiến tim mình khẽ nhảy nhót? Ánh sáng mơ hồ, cùng với suy nghĩ mông lung, hồi lâu rốt cuộc Lộ Dao mơ mơ màng màng thiếρ đi.
[52] Hai câu trong bài phú của Vương Bột, dò trên mạng thì ngay cả bên Tàu cũng rất ít nhắc tới bài phú này, đừng nói chi là Việt Nam nên ta không tìm được bản dịch của nó. Hai câu này ta lý giải theo cách hiểu của ta:
Trữ linh thất vu tinh kỳ tức là chờ đợi người yêu lúc hai ngôi sao (tức là sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ) gặp nhau.
Quyến thần tư vu nguyệt tịch tức là lưu luyến bóng dáng người yêu vào tháng thất tịch.
Tiện đây giải thích luôn mấy chữ Khất xảo, tinh kỳ, lan dạ:
Khất xảo: mồng 7 tháng 7, người xưa sẽ sắp mâm cúng cầu sao Chức Nữ phù hộ cho khéo tay may vá. Khất xảo nghĩa thô là xin khéo ^^
Tinh kỳ: ngày hai ngôi sao tụ hội
Lan dạ: theo âm lịch cũ, tháng bảy còn gọi là lan nguyệt nên đêm tháng bảy gọi là lan dạ.
[53] Kịch hát Tứ Xuyên
[54] Một trong ba con đê ngăn Tây Hồ, do Bạch Cư Dị sai người đắp khi là thứ sử Hàng Châu
[55] Tên thật là Lâm Bô, nhà thơ, ẩn sĩ nổi tiếng thời Tống, Hòa Tĩnh là tên thụy của ông, bài thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng là bài Mai hoa.
[56] Đông Pha thì biết rồi hén, nhà thơ Tô Đông Pha, còn Lạc Thiên là tên tự của Bạch Cư Dị. Hai người này trước sau đắp hai con đê Tô, Bạch