Sở Kiều ngây ngốc ở trong phòng, dạo gần đây trời lạnh nên nàng hay buồn ngủ, dễ mệt mỏi, cả ngày chỉ ăn rồi ngủ, người cũng đầy đặn hơn.
Ngoài cửa đột nhiên truyền vào tiếng nói líu ríu, cửa phòng bị đẩy ra, Mặc Nhi e dè bước vào đi tới cạnh Sở Kiều, sắc mặt có hơi căng thẳng, cái mũi nhỏ đỏ ửng vì lạnh.
“Mặc Nhi, có chuyện gì sao?”
Mặc Nhi do dự một lúc, quay đầu nhìn ra cửa, hồi lâu sau mới nhỏ giọng hỏi: “Mẫu thân, hôm nay chúng ta không ra ngoài sao?”
Tính ra thì Sở Kiều cũng chỉ lớn hơn Mặc Nhi có mười tuổi, ban đầu nàng nghe cậu bé luôn miệng ‘mẫu thân’ này ‘mẫu thân’ nọ với mình còn thấy hơi không tự nhiên, nhưng sau cũng dần quen.
Nàng ngồi thẳng người lên, nhíu mày hỏi: “Ra ngoài? Đi đâu mới được?”
“Hôm nay là tết Nguyên Tiêu mà, bên ngoài có hội miếu, có cả hội hoa đăng nữa.” Trong mắt Mặc Nhi thoáng lộ ra một tia hưng phấn.
Sở Kiều quay đầu nhìn thì thấy ngoài cửa còn có vài thân ảnh đang thập thò ngó vào trong này. Mấy ngày nay Gia Cát Nguyệt bị phạt bế môn nên người trong phủ cũng rất ít khi ra ngoài. Nàng bẹo má Mặc Nhi một cái rồi cười nói: “Được, chúng ta ra ngoài chơi.”
Đại lục Tây Mông rất rộng lớn, dựa theo cách tính ở hiện đại thì chắc khoảng hơn bốn mươi triệu km2 , tương đương với năm nước Trung Quốc gộp lại. Vùng đất này có lịch sử lâu đời, tuy nhiều lần xảy ra chiến loạn nhưng nhân khẩu vẫn rất đông đúc. Thành Chân Hoàng là kinh đô của Đại Hạ nên mật độ dân cư hết sức dày đặc.
Sở Kiều và đám người cùng đi trên đường, bốn phía rực rỡ ánh đèn, đủ loại hoa đăng đua nhau khoe sắc, thu hút ánh mắt của người đi đường. Người dân trong thành từ nam đến nữ, từ già đến trẻ đều túa ra đường tham gia lễ hội. Các gánh biểu diễn tạp kỹ hò hét, người bán hàng rong chào mời, cảnh tượng vô cùng náo nhiệt.
Tết Nguyên Tiêu năm nay náo nhiệt hơn so với năm trước, tiếng người cười nói cộng thêm tiếng chiêng trống ồn ào cả một khoảng trời.
Bọn nhỏ chơi đùa đến quên trời quên đất, nhưng mới hơn một canh giờ thì bão tuyết đột ngột ập đến. Gió bắc gào rú xé rách hàng hoa đăng treo bên đường. Thanh Thanh hét to mấy tiếng giục mọi người lên xe ngựa, các thị vệ vung roi nhanh chóng đánh xe trở về phủ. Nhưng gió càng lúc càng lớn, bọn họ đi đến một đoạn đường vắng vẻ thì một con ngựa kéo xe bị tuột dây cương, chạy sổng mất,
Nguyệt Thập Tam chạy đến nói rằng gió tuyết quá mạnh, trước nên tìm chỗ tránh tạm đã.
Sở Kiều gật đầu đồng ý. Vừa dịp nhìn thấy bên đường có một ngôi nhà lớn, đoàn người lập tức chạy đến gõ cửa, nhưng đến gần thì mới phát hiện đây chính là miếu an thần của vua sư tử Bắc Yến.
Yến Thế Thành tuy xuất thân vương tộc nhưng vì bị đế quốc gán tội phản tặc nên không được an táng trong tông miếu. Nơi này trên danh nghĩa là miếu an thần, trên thực tế thì chính là một cái nghĩa trang, không chỉ có quan tài của Yến Thế Thành và gia quyến mà có cả quan tài của thường dân ở gần đây. Lúc đầu triều đình còn phái binh sĩ nghiêm cẩn canh phòng ở đây, nhưng sau khi Yến Tuân trở lại Bắc Yến thì không còn thấy tử sĩ Đại Đồng Hành đến cướp lại thi thể nữa. Vì vậy nơi này càng lúc càng vắng vẻ, triều đình cũng không nguyện ý hao tốn binh lực vì một đống xương trắng nữa.
Đoàn người đi vào sảnh chính, bọn hộ vệ đốt nến cùng đuốc tìm được, nhanh chóng rọi sáng gian phòng. Trong đại sảnh bày chi chít linh vị và hơn hai mươi cỗ quan tài, ánh nến tù mù tô thêm vẻ âm u của nơi này.
Thanh Thanh sợ đến mặt trắng bệch, trốn sau lưng Đa Cát, níu chặt tay áo cậu, không còn hoạt bát như ngày thường.
Mai Hương cười trêu cô nàng: “Không ngờ tiểu thư Thanh Thanh của chúng ta cũng biết sợ hãi, ta cứ tưởng muội là hỗn thế ma vương, không sợ trời không sợ đất đấy.”
Mọi người nghe nói đều đồng loạt cười to, khiến không khí nhất thời dễ chịu hơn nhiều.
Vinh Nhi đã sắp tròn một tuổi, cả ngày bi bô tập nói, chập chững đi tới đi lui như một chú vịt con vừa nở. Hôm nay bé mặc một chiếc áo bông đỏ chót có thêu chữ ‘phúc’, huơ huơ cánh tay mũm mĩm, ngáp một cái thật to rồi rúc vào trong lòng Sở Kiều tìm tư thế thoải mái nhắm mắt ngủ.
Sở Kiều đứng dậy giao Vinh Nhi cho Mai Hương, khẽ nói: “Ta ra ngoài một chuyến.”
“Tiểu thư, bên ngoài rất lạnh, người muốn đi đâu vậy?”
Sở Kiều bảo Mai Hương đưa đến một hộp thức ăn, cầm lấy đèn lồng rồi nói: “Ta sang bên cạnh nhìn một chút thôi, không cần đi theo ta.” Dứt lời thì đi ra ngoài.
Bên ngoài gió lớn kinh người, Sở Kiều sống trên đại lục Tây Mông gần mười lăm năm nhưng cũng chưa từng nhìn thấy gió mạnh như vậy. Đèn lồng trong tay tắt phụt, áo lông trên người cũng bị gió tốc cao, tuyết lạnh tạt vào mặt đau rát. Sở Kiều giữ chặt cổ áo, khó khăn đi từng bước một, đi hồi lâu thì đến trước một gian phòng tan hoang, chậm rãi đẩy cánh cửa ra.
Gió thổi vào trong khiến lớp bụi dày trên sàn bị thổi tung, Sở Kiều ho khan mấy tiếng, nhanh chóng đóng cửa phòng lại, cũng tiện tay kéo một chiếc ghế đến chắn cửa.
Căn phòng chìm trong vẻ tĩnh lặng chết chóc, dường như bên trong còn lạnh lẽo hơn cả bên ngoài, mái ngói trên trần bị thủng lỗ chỗ, gió thổi vào kêu *vù vù*. Bốn phía tối đen như mực nhưng Sở Kiều dường như rất quen thuộc với nơi này. Nàng móc từ trong góc ra một cái đánh lửa, chậm rãi thắp sáng toàn bộ nến ở đây.
Trong phòng có bốn cỗ quan tài, không có linh vị, không có nhan đèn, không có cả bài vị. Xung quanh đầy cỏ dại và rác rưởi, vài cái bánh bao lạnh cứng, có thể thấy được nơi này đã bị biến thành chỗ dừng chân của ăn mày.
Sở Kiều đặt hộp thức ăn xuống một bên rồi xắn tay áo bắt đầu quét dọn. Động tác của nàng rất nhanh nhẹn, không có dụng cụ nên nàng nhặt ít rơm rạ bó lại thành chổi, nhanh chóng quét hết rác bẩn ra ngoài, quét cả mạng nhện, khiến gian phòng nhìn sạch sẽ hơn rất nhiều. Nàng từ tốn lấy từng đĩa đồ ăn trong hộp ra bày trên mặt đất, sau đó quỳ xuống vái lạy vài cái.
Đúng vậy, bốn cỗ quan tài này thuộc về phụ thân, hai vị huynh trưởng và một vị tỷ tỷ của Yến Tuân. Những năm đó, mỗi lần đến ngày giỗ của Yến vương, nàng và Yến Tuân luôn trốn đến đây tế bái, khi đó nơi này vẫn còn rất đông quan binh canh chừng chặt chẽ, bọn họ muốn lẻn vào phải tốn rất nhiều công sức, vậy mà bây giờ nó lại trở nên hoang tàn đến vậy.
Kể từ khi trở lại thành Chân Hoàng, nàng chưa từng có ý định đến đây bái tế, không ngờ hôm nay trời lại run rủi, đây có lẽ cũng là một loại duyên phận.
Không có nhang đèn thì dùng huân hương thay thế, không có giấy tiền vàng thì dùng lụa đốt thay, không có rượu ngon thì dùng một bình sữa dê và hai bình trà.
Yến vương điện hạ, ta lại đến thăm ngài đây.
Nàng đứng dậy, hai đầu gối bám đầy bụi đất. Bông tuyết qua lỗ thủng trên nóc rơi vào phòng, phủ lên nắp quan tài. Nàng lẳng lặng nhìn bốn cỗ quan tài, cố gắng hồi tưởng lại những cái đầu đầy máu nhìn thấy khi xưa, lòng thoáng thấy thê lương.
Trước khi bão tuyết tàn phá đến khu vực Lũng Tây thì đã càn quét qua Bắc Yến. Nhà cửa của dân chúng bị gió thổi sập, Lạc Thành bị ảnh hưởng còn nặng hơn, hàng vạn dê bò ở Thượng Thận đều bị chết rét, người dân đói ăn, Bắc Yến tràn ngập nguy cơ.
Vậy mà trong lúc quan viên ở Đại Hạ vỗ tay ăn mừng thì Bắc Yến lại âm thầm triệu tập mười vạn binh tướng ở Long Ngâm Quan, băng qua cao nguyên Lan Hà, vượt qua dãy Mộ Lang cao hơn sáu ngàn thước so với mặt nước biển, vòng qua Đường Hộ Quan, tiến thẳng vào cảnh nội Biện Đường, đột ngột tập kich cửa khẩu, cướp đoạt hơn hai mươi vạn đấu lương thực rồi trở về Bắc Yến bằng khí thế sét đánh không kịp bưng tai, cả chiến dịch không tốn hơn bốn ngày. Đến khi chiến báo ở biên giới đến được Đường Kinh thì số binh tướng kia đã về đến Long Ngâm Quan, còn đánh xong hai trận với quân Hạ muốn nhân lúc Bắc Yến cháy nhà vào hôi của.
Sự kiện này giống như một giọt nước nhỏ vào chảo dầu đang sôi, nổi lên sóng gió kịch liệt.
Đại Hạ và Biện Đường giận dữ nhưng lại chẳng làm gì được Yến Tuân, đám Ngự sử của Đại Hạ múa bút thành văn, mắng Bắc Yến quả nhiên xuất thân thổ phỉ, trời sinh quen thói đốt giết cướp bóc, không phải là người. Chúng học sĩ ở Biện Đường cũng lửa hận hừng hực, xối máu chó lên đầu tám đời tổ tông của Yến Tuân mà mắng, kich động đến mức suýt sùi bọt mép.
Có điều bọn họ cũng chỉ có thể làm thế mà thôi. Long Ngâm Quan phòng thủ kiên cố, binh tướng lại hung hãn như hổ sói, dưới tình hình hiện giờ, bọn họ không bị tiến đánh đã là mừng lắm rồi, ai dám tới tận cửa khiêu khích Bắc Yến chứ?
Lúc nghe được tin này, Sở Kiều không khỏi cười lạnh, có lẽ câu nói mềm sợ cứng, cứng sợ liều, chính là có ý này.
Gia Cát Nguyệt thì vẫn giữ bộ dạng thờ ơ như cũ, không thèm để ý đến mấy lời hô hào đòi đánh của đám quan lại trên triều. Người nào chả biết Đại Hạ bây giờ còn chưa lo xong thân mình, tranh giành giữa các vị hoàng tử đã đến giai đoạn cao trào, ai có thời gian đi đánh đánh chém chém với bên ngoài chứ? Nói thì rất mạnh miệng, nhưng nếu hắn thật sự điều động binh mã kéo ra Nhạn Minh Quan, e mấy lão già kia sẽ lập tức lấy cái chết ra can gián.
Lúc biết tin hắn cũng chỉ hơi kinh ngạc, nói không ngờ Yến Tuân lại có thể làm như vậy.
Thật ra thì đâu chỉ có Gia Cát Nguyệt, e toàn bộ đại lục cũng chẳng ai ngờ được.
Dù sao thì trước đó Yến Tuân cũng từng đem cả Bắc Yến làm vật cược, lấy trăm vạn quân dân là mồi nhử dẫn dụ quân Hạ vào lãnh thổ của mình rồi xua binh đánh phía đông, không lâu sau đó còn thẳng tay đàn áp mọi thế lực chống đối, san bằng Đại Đồng Hành từng che chở bồi dưỡng mình, không nhân nhượng giết cả người từng là thầy mình.
Vì vậy, chẳng ai ngờ được hắn sẽ vì dân chúng Bắc Yến mà mạo hiểm lớn như vậy.
Ngay cả Sở Kiều cũng nghĩ không ra là vì sao.
Có điều, cũng may thống lĩnh ở Đường Hộ Quan vốn là nghĩa tử của Tĩnh An vương, tuy sau khi Tĩnh An vương bị đánh bại, hắn kịp thời vào kinh bày tỏ lòng trung, nhưng kẻ này nắm giữ binh quyền, lại canh giữ vị trí quan trọng với Biện Đường như vậy, quả thật vẫn không thể khiến người khác hoàn toàn yên lòng. Lần này Yến Tuân dẫn quân trừ khử hắn, tính ra với Biện Đường cũng chẳng phải là tổn thất một tướng tài.
Về phần chút ít lương thảo bị cướp đi kia…
Sở Kiều khẽ nhíu mi tâm, trong đầu lại hồi tưởng đến cao nguyên Thượng Thân nàng từng sinh sống nhiều năm, và cả những người dân hiền lành chất phác kia…
Thủ đoạn của Yến Tuân càng ngày càng lợi hại, che giấu thâm sâu, hành động nhanh nhẹn dứt khoát, điều động hơn vạn binh tướng mà không để lọt một tiếng gió, đánh bất ngờ, một kich trúng hồng tâm. Bàn về thủ đoạn, tầm nhìn, lòng can đảm, có thể nói là đứng đầu đương thời. Chỉ cần hắn còn ở Bắc Yến, Đại Hạ đừng mơ công phá được Long Ngâm Quan, cho dù là Triệu Triệt tự mình xuất quân thì cũng chưa chắc hoàn toàn nắm được phần thắng. Triệu Triệt có thể hơn ở phương diện chiến thuật, binh lực, tình báo, vũ khí hay tiếp tế hậu cần, nhưng nếu nói đến thủ đoạn tàn nhẫn, sự nhẫn nại kiên trì, hắn tuyệt đối không bì kịp Yến Tuân.
Sự đáng sợ của Yến Tuân trên chiến trường là ở chỗ hắn có thể hoàn hảo lợi dụng tất cả yếu tố xung quanh làm điểm hỗ trợ giành lấy chiến thắng. Và khả năng kich động lòng người của hắn cũng đã hơn hẳn người khác một bậc.
Hiện giờ, người có thể đánh ngang với Yến Tuân, có lẽ cũng chỉ có Gia Cát Nguyệt mà thôi. Yến Tuân hơn ở phần tàn nhẫn ngoan độc còn Gia Cát Nguyệt thắng ở phần thâm sâu lắm kế. Nếu hai người này có thể thẳng thắn đánh một trận mà không phải vướng bận phiền hà ở hậu phương bổn quốc, ắt hẳn sẽ tạo thành một cuộc chiến truyền kỳ trên sách sử.
Nàng nhẹ lắc đầu, tuy chán ghét những ngày tháng chìm đắm trong chiến tranh, nhưng thỉnh thoảng vẫn không tự chủ được, nghe được ít tin tức thì liền vạch ra tình huống đại khái, sau đó diễn giải, tính toán, bố trí đường hướng. Tựa như một người yêu cờ tha thiết, tuy đã bỏ cờ nhưng trong đầu vẫn còn mường tượng các thế đánh.
Chẳng qua ván cờ này, nàng thật sự không biết mình rốt cuộc hy vọng ai sẽ chiến thắng.
Sâu trong thâm thâm, cho dù không còn hòa hảo với Yến Tuân thì nàng cũng không hy vọng nhìn thấy hắn từ thịnh thành suy.
Vì vậy khi biết Yến Tuân thành công tập kich Đường Hộ Quan, nàng vẫn có chút mừng thầm, hoàn toàn không để ý mình chính là Tú Lệ vương của Biện Đường.
Sở Kiều tự giễu cười một tiếng, ngay cả nàng cũng không phải ngoại lệ. Mọi ân oán tình thù gì đó, qua thời gian đều chỉ còn là một bóng lưng mơ hồ, một đôi mắt âm lãnh và một cánh tay cầm kiếm.
Là ai phụ bạc ai, ai thiếu nợ ai, thật sự có thể nói rõ sao?
Hai người bọn họ, tuy không thể tay chung tay thì cũng không nhất định phải ngươi chết ta sống.
Gió bên ngoài đột nhiên trở lớn, đập vào cửa kêu *kẽo kẹt*, đẩy băng ghế chắn ngang cửa ra. Sở Kiều tưởng là gió, vừa quay đầu định đi chắn chặt lại thì cửa phòng chợt bị mở ra, một bóng người khoác áo choàng đen đứng trước cửa, phía sau chỉ có một tùy tùng áo xanh.
Người nọ đứng ngược sáng không rõ mặt, chỉ thấy được một đôi mắt đen thẳm như vực sâu đang nhìn thẳng vào nàng.
Ánh mắt như vậy, Sở Kiều thậm chí còn tưởng rằng mình vừa nhìn thấy Yến Tuân.
Bên ngoài tối mịt không chút ánh trăng, chỉ có gió tuyết đầy trời, phả vào mặt lạnh buốt như mũi đao. Người nọ đứng đó, áo choàng phủ kín người, chỉ để lộ đôi mắt thâm thúy nhìn nàng chằm chằm. Vài ngọn nến thưa thớt trong phòng đều bị gió thổi tắt, chỉ có ánh sáng xanh nhàn nhạt phản chiếu từ nền tuyết, tô thêm áp lực nặng nề tỏa ra từ thân ảnh kia.
Như rất lâu, nhưng cũng vừa như chỉ một thoáng qua, người nọ chậm rãi nhấc chân bước vào, đầu hơi cúi, dáng vẻ mơ hồ lộ ra vẻ mệt mỏi, bàn tay gầy gò xương xẩu đưa lên che miệng, ho khan một tiếng.
Cửa phòng bị đóng lại, ba người cùng đứng khiến linh đường hơi chật chội. Người tùy tùng lưng còng mặc áo xanh nhanh chóng thắp lại nến, ánh sáng nhờ nhờ chiếu lên tóc mai hoa râm cùng bàn tay nhăn nheo bên dưới áo choàng.
Băng ghế nhỏ Sở Kiều dùng để chắn cửa khi nãy được người tùy tùng lau sạch sẽ, người nọ vừa ho khan vừa ngồi xuống, lưng hơi khòm, thấp thoáng nhận ra được bên dưới lớp áo kia là thân thể suy nhược đến cỡ nào.
Sở Kiều vẫn đứng yên tại chỗ, từ lúc bọn họ bước vào vẫn không nói gì. Nàng có hơi hoài nghi, một người bệnh gầy gò ốm yếu như vậy sao lại có thể khiến nàng thoáng chấn kinh, thậm chí còn cho là Yến Tuân đích thân đến nữa.
Viên tùy tùng lui ra đứng cạnh cửa, cả người như ẩn trong một góc tối, cúi đầu im lìm như một tảng đá.
Trong phòng nhờ nhờ ánh nến, gió luồn qua chỗ hổng trên trần kêu *vù vù* khiến ngọn nến chập chờn như muốn tắt. Người nọ chợt ngẩng đầu lên, đưa con ngươi sâu thẳm nhìn nàng, đột ngột lên tiếng: “Tối nay gió tuyết thật dữ dội.”
Sở Kiều sửng sốt, chẳng rõ vì sao mà khi đối mặt với người này, nàng cảm giác có chút căng thẳng không nói nên lời. Tựa như từ trên người đối phương tỏa ra một áp lực vô hình, dần dần tràn ngập khắp phòng, khiến hô hấp cũng khó khăn hơn.
“Vâng, đúng là rất lớn.” Nàng gật đầu, lẳng lặng đáp lời.
“Đã nhiều năm không có gió tuyết mạnh như vậy rồi.” Người nọ hẳn đã rất nhiều tuổi, giọng nói lộ ra vẻ già nua cùng mệt mỏi không cách nào che giấu, “Ngay cả mùa đông mười lăm năm trước cũng không có gió tuyết lớn như thế, đốn ngã cả cây hòe già trước cổng phủ doãn.”
Mười lăm năm trước…
Chính là cái năm Yến Tuân tan cửa nát nhà, mùa đông rét lạnh đến cùng cực, bọn họ co ro trong dịch quán tồi tàn ở nam thành, đốt rụi toàn bộ đồ đạc trong phòng vẫn bị lạnh đến nứt da nứt thịt.
“Hội hoa đăng năm nay có náo nhiệt không?” Người nọ tự nhiên hỏi, tựa như bọn họ là bằng hữu đã lâu không gặp vậy.
Sở Kiều hơi nghiêng đầu đáp: “Ông trời không phối hợp nên hội hoa đăng bị gián đoạn. Lão tiên sinh cũng đến ngắm hoa đăng rồi bị gió tuyết níu chân ở đây sao?”
Người nọ thấp giọng cười một tiếng rồi nói: “Thân thể ta thế này thì còn đi ngắm hoa đăng gì chứ?”
Sở Kiều chớp mi, trầm giọng hỏi: “Nói vậy tiên sinh đặc biệt đến đây là để tế bái Yến lão vương gia sao?”
Tuy không nhìn rõ mặt của ngươi nọ, nhưng Sở Kiều vẫn có thể nhận ra ông lẳng lặng mỉm một nụ cười.
Xa xa chợt vọng đến một hồi chuông ngân dài, đó là mười tám tiếng chuông báo hiệu giờ lành. Lúc này trên đài Thiên Trình trong cung Thịnh Kim, Khâm thiên giám sẽ chủ trì cho các cao tăng dâng hương lễ bái Phật, tụng kinh cầu bình an, xin cho sang năm được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Nghe thấy hồi chuông, Sở Kiều nhẹ nhàng quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng chuông, thoáng hơi thất thần.
“Nghĩa trang này hoang vắng như vậy, ngươi thân nữ một mình ở đây không sợ sao?”
Sở Kiều quay đầu nhìn người nọ, biết rõ có thể ngang nhiên tiến vào đây mà không bị đám Nguyệt Thập Tam phát giác thì tuyệt đối không phải người bình thường. Tuy đã lần lượt loại bỏ hết những người có thể tới đây vào lúc này, nhưng Sở Kiều vẫn không tìm được nhân vật nào có khả năng này, nàng không khỏi càng lúc càng nghi hoặc nhưng trên mặt vẫn không biểu hiện gì, chỉ thản nhiên cười nói: “Trong lòng ngay thẳng thì không có gì phải sợ, so với lòng dạ con người thì mấy thứ gọi là du hồn dã quỷ hiền lành hơn không biết bao nhiêu lần.”
“Trong lòng ngay thẳng?” Ngươi nọ hơi cao giọng, cười nói: “Trên đời này, người có thể chân chính gánh được bốn chữ này, còn được mấy người?”
“Tự mình cảm thấy gánh được là đủ.” Sở Kiều vẫn đứng nguyên tại chỗ, áo choàng lông trên người bên dưới ánh nến càng thêm tinh khôi, khuôn mặt như bừng lên trong ánh sáng nhờ nhờ, lẳng lặng tiếp lời: “Là người cả đời làm thanh quan, trung với xã tắc, liêm chính ngay thẳng. Là người xuất thân tầm thường bé mọn, vất vả kiếm sống nhưng không bao giờ phạm pháp. Chỉ cần trong lòng không có vướng mắc thì sẽ gánh được hai chữ ‘ngay thẳng’ này. Chỉ cần lòng hướng về bình yên, tự mình quyết tâm thì không phải là không thể.”
Người nọ khẽ nhướng mày, một cơn gió chợt ào vào thổi bụi đất bay lên, nhẹ bám vào vạt áo hai người. Ông trầm tư một thoáng, sau đó mỉm cười nói: “Nói có đạo lý.”
“Bên ngoài gió tuyết lớn như vậy, lão tiên sinh đêm tối tìm đến, là vì lòng có vướng mắc sao?”
“Người đã già, khó tránh khỏi dễ nhớ đến chuyện vặt lúc trẻ.”
Một cơn cuồng phong mở bật cửa ra, thổi tắt toàn bộ nến trong phòng. Viên tùy tùng hoảng hốt, tuy tuổi đã lớn nhưng thân thủ vẫn rất linh hoạt, nhanh chóng đóng cửa rồi định đi thắp lại đèn. Người nọ giương mắt nhìn về phía cỗ quan tài ẩn mình trong bóng tối thăm thẳm, thu lại nụ cười, khoát tay nói: “Cứ để vậy đi.”
Trong phòng rất yên tĩnh, nghe được rõ ràng tiếng gió gào rú bên ngoài. Hai mắt dần thích ứng với bóng tối, dựa vào ánh sáng phản chiếu trên nền tuyết cũng mơ hồ thấy được bóng dáng người đối diện.
Người nọ cởi áo khoác ra, nói: “Chắc hắn không muốn nhìn thấy ta.”
“Ta có mang rượu đến, uống với ta một chén đi.”
Không đợi Sở Kiều trả lời thì lão tùy tùng phía sau đã tiến lên, trải một tấm lụa xuống trên mặt đất, bày ra hai chén rượu, một chiếc bình ngọc trắng muốt, chất ngọc ánh lên trong bóng tối. Bình khẽ nghiêng, hai chén nhỏ được rót đầy, hương rượu tỏa ra bốn phía. Lão tùy tùng dùng hai tay dâng một chén đưa cho Sở Kiều.
Sở Kiều ngửi qua, liền nói: “Là Thanh Nữ Kiều ở Thanh Khâu.”
Người nọ cười tán thưởng, “Khứu giác tốt.”
Sở Kiều mỉm cười, “Tiểu bối tửu lượng không cao nhưng ngửi mùi đoán tên thì khá lành nghề.” Nói xong nàng rút từ trên đầu một chiếc trâm bạc nhúng vào trong chén, nhẹ ngửi đầu trâm rồi mới yên tâm uống cạn, “Quả nhiên là rượu ngon.”
Người nọ cũng không bận tâm chuyện nàng công khai nghiệm độc ngay ở trước mặt mình, ngược lại còn thích thú nói: “Đưa trâm của ngươi cho ta mượn dùng chút.”
Sở Kiều thoáng ngạc nhiên, hỏi lại: “Rượu do mình mang đến mà tiền bối còn không yên tâm?”
“Cẩn thận một chút không bao giờ thừa.”
Người nọ học theo Sở Kiều nhúng đầu trâm vào chén rượu, lấy ra bật lửa đốt rồi nhìn hồi lâu mới ngửa đầu uống rượu.
Sở Kiều bật cười, “Tiền bối làm như vậy, ngược lại càng thêm không an toàn.”
Người nọ hơi kinh ngạc hỏi: “Tại sao?”
“Không phải loại độc nào cũng có thể dùng bạc nghiệm ra, huống chi trong quá trình đưa trâm cho tiền bối, ta có rất nhiều biện pháp hạ độc vào trâm. Mà cho dù là không dùng độc, tiền bối ở gần ta như vậy, chẳng lẽ không sợ ta là thích khách sao?”
Người nọ nhìn nàng, không hề có chút sợ hãi, ngược lại rất bình thản hỏi: “Vậy ngươi là thích khách à?”
“Ta nói không phải, tiền bối tin sao?”
Người nọ nhướng mày, tựa như đang cố ngẫm nghĩ, hồi lâu sau mới nói: “Không tin lắm.”
Sở Kiều bật cười, “Đúng đó, hôm nay nông dân muốn ăn gà nên sẽ không giết heo, nhưng cũng không có nghĩa là ngày mai cũng không giết heo.”
“Ngươi so sánh ta với heo?”
“Không dám.” Sở Kiều lắc đầu, “Người như tiền bối, ba phần giống sói, ba phần giống rắn, bốn phần còn lại thì nhìn không ra, nói chung không phải là người dễ đùa.”
Người nọ quay sang lão tùy tùng đứng ở cửa, cười nói: “Nhìn miệng lưỡi của nha đầu này đi, còn độc địa hơn mấy trăm lần so với ngòi bút của Ngự sử đài nữa.”
Người nọ dường như rất vui vẻ, thoải mái bảo Sở Kiều ngồi xuống uống rượu với mình. Gió tuyết bên ngoài càng lúc càng lớn, Sở Kiều kéo thêm một cái ghế nhỏ sang, lau sạch rồi ngồi xuống, từ tốn uống rượu với ông.
Không gian tối mịt mù, chỉ có trên nóc nhà nhờ nhờ ánh sáng phản chiếu khi gió tuyết thổi qua.
Rượu này thơm mê người, chỉ cần uống một chén thì sẽ muốn uống chén thứ hai. Cho dù không có độc thì uống nhiều sẽ say. Không biết qua bao lâu, Sở Kiều dần thấy mơ hồ, nàng tựa người ra phía sau, tay chống lên thành ghế, chậm rãi nhắm mắt lại, nói chuyện với người nọ mà câu được câu không. Dường như bọn họ đã nói rất nhiều, rất rất nhiều, nhưng nàng đều không nhớ rõ. Trong lòng vô cùng tĩnh lặng, như có dòng nước nhẹ nhàng quét qua tay, qua mặt nàng.
Nàng như nhìn thấy hình ảnh lúc còn bé, ông nàng ôm nàng, tỉ mỉ dạy nàng Thái tổ trường quyền*, dạy nàng chiêu Cầm nã thủ**, dạy nàng nhận thức vị trí huyệt đạo quan trọng, dạy nàng sử dụng đủ loại vũ khí. Mỗi sáng nàng phải đứng dưới cờ lặp lại lời tuyên thệ ông bắt nàng thuộc nằm lòng. Lúc đó nàng chỉ mới mấy tuổi nhưng vẫn hết sức nghiêm túc, thẳng người đứng sau lưng người ông đã già nhưng vẫn hết sức cường tráng, lớn tiếng nói từng chữ một: “Một lòng trung với nước nhà, trung với nhân dân, lúc cần phải tự nguyện hy sinh vì tổ quốc, vì nhân dân…”
*Thái tổ trường quyền = Thái Tổ Trường Quyền là Thiếu Lâm tuyệt học, bộ quyền pháp này, phong cách đặc biệt, không có quy tắc nhất định, chiêu thức rõ ràng dứt khoát, nhịp chân linh hoạt, hành quyền quá bộ, đánh mạnh, trong cận chiến, có thể bùng nổ uy lực cực mạnh.
*Cầm nã thủ = cách ra quyền bằng mười ngón tay. Khác với chỉ công khi đánh phải giương thẳng ngón tay ra, trong phép đánh cầm nã thủ, ngón tay phải khum lại. Bí quyết của cầm nã thủ thu gọn trong tám chữ: câu, giật, buông, bắt, chộp, điểm, khóa, đẩy. Ba chữ cầm nã thủ có nghĩa đơn giản là thủ pháp sử dụng mười ngón tay để bắt giữ, vô hiệu hóa đối thủ.
Hình ảnh thay đổi, chuyển thành khung cảnh thâm cung lạnh lẽo, trăng trên đỉnh đầu rất tròn rất sáng, thiếu niên đứng trước mặt nàng, nhìn thấy chiếc trâm trên tóc nàng thì mím môi, giận dỗi quay đi. Nàng thấy vậy liền vội vàng lấy trâm xuống, khẩn trương chạy đến dỗ dành hắn, nói là do Triệu Thập Tam nằng nặc bắt nàng cầm, nàng không hề thích nó. Hồi lâu, thiếu niên mới ngượng ngùng đưa ra một chiếc trâm gỗ thô sơ, hình như là dùng mẩu đồng gọt thành, chỉ là một thanh gỗ trơ trụi, không có bất kỳ hình thù trang trí gì. Ngón tay của thiếu niên cũng hơi bị rách da, vài chỗ còn ứa máu, dùng vải băng lại sơ sài.
Sau đó, một đôi mắt như mắt hồ ly hiện ra, nam nhân mặc y phục đỏ thẫm ngồi trong thủy các đón gió, tiêu sái thổi trường tiêu. Một bầy thiếu nữ y phục rực rỡ vây quanh hắn, ánh mắt si mê như vừa uống hết hai vò nữ nhi hồng. Nhìn thấy nàng từ xa, hắn đột ngột đứng dậy, ra sức vẫy tay với nàng, kêu to: “Kiều Kiều! Kiều Kiều! Mau qua đây~!”
Hình ảnh lại thay đổi, không trung phủ đầy sương khói và ánh sáng, quang ảnh xoay tròn rồi tụ lại thành hình dáng một nam nhân cao ngạo tuấn tú, khung cảnh giống như trong đêm hội hoa đăng ba năm trước, hắn đang giận dỗi vì nàng không chịu cùng hắn đến Thanh Hải. Hắn hậm hực đi trước, không thèm nghe nàng giải thích, trước khi đi còn to tiếng mắng nàng ngốc, mắng nàng hết thuốc chữa. Trong lúc tức giận, nàng nhặt một hòn đá lên ném về phía hắn, vừa hay trúng ngay đầu hắn, khiến hắn mặt xanh mét, quay phắt lại hung dữ nhìn nàng chằm chằm.
Sau đó, trên con thuyền êm đềm trôi theo dòng nước, hai người ôm nhau đứng trong màn mưa bụi lất phất, hắn thì thầm bên tai nàng: “Ta rất vui, chưa từng vui như vậy bao giờ…”
Ngay lúc đó, bên tai chợt văng vẳng một tiếng trẻ con trong trẻo, “Sau cùng, hắn chết, hắn cũng chết, nàng thương tâm rời đi, sau đó nàng cũng chết, chỉ còn lại một mình hắn.”
Phải rồi, nàng đang nằm mơ, Lý Sách đã chết, đã bị mẹ mình tự tay giết chết, đã chết trong lòng nàng, trước ngực hắn ướt đẫm máu tươi. Nàng còn chạm vào thân thể và bờ mi lạnh lẽo như băng của hắn, hắn tựa vào vai nàng mà chết, không bao giờ có thể gọi tên nàng nữa, không bao giờ có thể đưa tay nhéo mặt nàng nữa, không bao giờ có thể nửa đêm trèo cửa sổ nhảy vào phòng nàng nữa, không bao giờ có thể lén đọc thư Gia Cát Nguyệt viết cho nàng nữa, khi nàng khổ sở không bao giờ có thể dịu dàng nhìn nàng, ôm nàng vào lòng rồi nói: Đừng sợ, đừng sợ. Còn có ta ở đây, còn có cả Gia Cát Tứ nữa. Cho dù là tiểu tử Yến Tuân kia cũng không thể tổn thương đến nàng.
Trời đất mịt mù gió bắc, tuyết đỏ như máu không ngừng đổ xuống, nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt và Yến Tuân đối đầu với nhau trên chiến trường, nàng nhìn thấy hàng vạn hàng ngàn người hồn lìa khỏi xác, nàng nghe được tiếng gió rít gào thê lương, nhìn thấy bầu trời bị rách toạc, máu tươi trào ra từ khe rách, tuôn xối xả xuống chiến trường. Nàng nhìn thấy Gia Cát Nguyệt ngã xuống, da thịt trên lưng nứt ra, chính là vết thương do nàng đâm rất nhiều năm trước, một thanh kiếm lạnh lẽo đâm vào giữa ngực. Nàng nhìn thấy Yến Tuân cầm lưỡi kiếm dài ba thước đứng trên đống thi thể, mưa tên bắn đến đen kịt trời. Hắn đứng ở nơi cao nhất, dưới chân không ngừng chảy xuống chất lỏng đỏ lòm, trên người cắm đầy tên nhọn nhưng vẫn không ngã xuống.
Thiên quân vạn mã ập đến, tất cả mọi hình ảnh chợt tan vỡ, đao gươm Khuyển Nhung chém vụn bản đồ Tây Mông. Nàng quỳ gối bên hồ băng Thiên Trượng, nhìn trời đất sụp đổ chỉ trong nháy mắt, bên tai vang vọng từng lời từng chữ của hắn: Phải sống, phải sống, sống tiếp…
…
Nước mắt ào ra khỏi khóe mi, chảy xuống cằm, rơi trên áo lông trắng tinh khôi của Sở Kiều.
Người nọ đứng trước mặt nàng, trên mặt không còn nụ cười khi nãy, thay vào đó là vẻ lãnh đạm xa cách. Ông quay sang hỏi lão tùy tùng: “Là nàng sao?”
Lão tùy tùng khom người, vẫn là bộ dáng khúm núm muôn thuở, thấp giọng đáp: “Thưa phải, chính là nàng.”
Người nọ mỉm cười nhưng đáy mắt không hề có chút ý cười, “Không ngờ lại gặp được ở đây.”
Lão tùy tùng vẫn khom người, cũng không đáp lời. Người nọ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên đưa đầu ngón tay quẹt qua má Sở Kiều, cảm nhận được chất lỏng lạnh như băng trên mặt nàng thì nhất thời sửng sốt.
“An Phúc, có ai uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn còn có thể khóc sao?”
Trong gian phòng tối mịt, lão tùy tùng dường như cũng không nhận ra cô gái ngồi trên ghế kia đang khóc. Lão vội vàng thắp một ngọn nến rồi cầm nến đến trước người Sở Kiều, cẩn thận nhìn qua thì cũng ngây người.
Từng giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài trên má, cứ như vậy không tiếng động rơi xuống, tựa như chuỗi trân châu bị dứt.
An Phúc thoáng chấn kinh, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: “Nô tài cho tới nay chưa từng nghe nói có người uống rượu Hoàng Lương rồi mà vẫn khóc được, trong lòng cô gái này có lẽ chôn giấu rất nhiều đau khổ.” Nói xong câu này, lão hơi nhíu mày, tựa như có điều gì khó hiểu, “Thân phận tôn quý như vậy mà cũng có điều khổ sở sao?”
Người nọ nghe hỏi thì mỉm cười, thản nhiên nói: “Càng hạnh phúc thì sẽ càng sợ có ngày mất đi nó. Trong lòng đứa trẻ này, e rằng có nỗi sợ hãi mà ngay cả nàng ta cũng không khống chế được.”
“Bệ hạ, thời gian không còn sớm nữa, chúng ta nên trở về rồi.”
Người nọ gật đầu, khoác áo choàng lên đi ra ngoài, ra tới cửa thì đột nhiên quay đầu lại, nhìn cỗ quan tài bên trong chằm chằm, “Thế Thành, ngươi nói xem, Đại Hạ còn tồn tại được mấy năm nữa?”
Gió bên ngoài vẫn thổi rất mạnh, bóng dáng của ông chợt lộ ra vẻ cô đơn khó tả. Ông đột nhiên ho khan mấy tiếng, vừa mỉm cười vừa mở cửa phòng đi ra ngoài.
Ngọn nến sắp tàn thoáng chao đảo trong gió, nhưng vẫn không tắt.
Cô gái mặc y phục trắng ngồi tựa lưng vào ghế, đầu hơi nghiêng sang một bên, nước mắt lặng lẽ chảy hết giọt này đến giọt khác.
…
Không biết đã qua bao lâu, bên cạnh tựa như có người đang nói chuyện, Sở Kiều khẽ chau mày, ánh đèn hơi chói mắt, tiếng hô mừng rỡ của Mai Hương vang lên: “Tỉnh rồi, tỉnh rồi, thật tốt quá.”
Sở Kiều chớp mắt, nhìn thấy Mai Hương đang đứng bên cạnh, Hoàn Nhi cầm một chiếc đèn lồng cũng đứng sát một bên, khẩn trương nhìn nàng.
“Tiểu thư, người làm sao vậy?”
Sở Kiều nhìn quanh một vòng, nhận ra bóng dáng người nọ đã sớm không thấy, không khỏi có hơi thất thần, nói qua loa: “Không có gì, chỉ không cẩn thận ngủ quên mà thôi.”
Mai Hương không kìm được trách móc: “Ở đây lạnh như vậy mà tiểu thư còn ngủ gục được?”
“Xem phu nhân có vẻ quá mệt rồi, gió tuyết bên ngoài cũng dịu bớt nhiều, chúng ta nhanh chóng về phủ đi.”
Đoàn người lên xe trở về, Vinh Nhi vẫn ngủ ngon lành, Mặc Nhi cũng nép vào lòng Thanh Thanh, mở mắt không lên.
Trận bão tuyết đã phá tan hội hoa đăng vốn náo nhiệt, trên đường trở về, khắp nơi đều có xác đèn bị gió xé rách tơi tả, đường phố trống trải đến thê lương. Sở Kiều vén màn xe lên nhìn lại nghĩa trang ở xa xa, chỉ thấy một mảnh tối tăm mịt mù, không một ngọn đèn, chỉ còn chiếc đèn lồng trắng nhờ nhờ treo trước cửa là còn nguyên, cũng không rõ nó làm sao sống sót qua khỏi trận bão tuyết kia.
Trở về đến phủ thì trời đã khuya, Nguyệt Lục chờ ở trước cửa, nhìn thấy mấy người bọn họ thì nhất thời thở phào một hơi thật dài, lập tức tiến lên nói Gia Cát Nguyệt đã trở về từ sớm, đã ra ngoài tìm nàng mấy bận rồi.
Sở Kiều vội vàng đi vào phủ, đến chính sảnh cởi áo choàng lông giao cho hạ nhân rồi rón rén đi tới phòng ngủ.
Trở về từ bên ngoài lạnh lẽo, sự ấm áp trong nhà càng thêm rõ rệt. Trong phòng rất yên tĩnh, hương trầm thủy lượn lờ trên lò hương, nàng lẳng lặng đi đến bên giường, nhìn thấy Gia Cát Nguyệt mặt hơi ửng hồng, để nguyên quần áo nằm trên giường, ngủ mà vẫn nhíu chặt mày, tựa như đang tức giận chuyện gì đó.
Hô hấp của nam tử hơi nặng nề, có thể ngửi được mùi rượu nồng nặc. Tửu lượng của Gia Cát Nguyệt từ trước đến giờ không quá tốt, tối nay có lẽ đã uống rất nhiều rượu nên mới ngủ quên như thế này.
Trên cột giường bằng gỗ lim có treo một chiếc đèn lồng chế tác khéo léo, hai mắt đỏ son, đôi tai thật dài, là một cái đèn hình thỏ xinh xắn.
Sở Kiều cởi giày ra, nghiêng người nằm xuống cạnh Gia Cát Nguyệt, hít thở mùi hương trên người chàng, lắng nghe hơi thở trầm thấp của chàng, cõi lòng lạnh lẽo dần ấm lại.
Nàng vòng tay qua hông chàng, gạt đi hình ảnh tuyệt vọng trong mơ.
Sẽ không, tuyệt đối sẽ không.
Bọn họ sẽ mãi ở bên nhau, sẽ vui vẻ mà sống. Bọn họ sẽ có con, một nhà sẽ cùng nhau rời khỏi nơi này, bắt đầu cuộc sống cho riêng mình.
Nhất định như vậy, nhất định…
…
Sau xuân yến, Đại Hạ càng lúc càng xuống dốc, loạn Lũng Tây lan rộng, đi lại trên đường bất kỳ lúc nào cũng thấy được cảnh buôn bán vợ con đổi lương thực mà sống. Triều đình đành ban bố công văn trợ giúp thiên tai ra ngoài, Hạ hoàng cũng đã vét cạn quốc khố. Nhưng Đại Hạ hiện tại như cường quốc có tiếng mà không có miếng, chiến tranh tựa như mãnh thú háu ăn không ngừng há to cái miệng khổng lồ, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà đã rúc rỉa một cường quốc chỉ còn cái vỏ không.
Có điều Bắc Yến cũng không hơn gì, tuy nhờ có lương thảo cướp về từ Biện Đường tạm thời qua được mùa đông giá rét này, nhưng hiện tại vẫn khó khăn trùng trùng. Dưới tình hình này, đầu năm biên quan cũng chẳng xảy ra chiến sự quy mô lớn nào. Bất kể là Bắc Yến muốn đông tiến hay Đại Hạ muốn phạt bắc cũng đều bị trận thiên tai này cầm chân.
Đầu tháng ba, một tin tức từ Bắc Yến được đưa đến kinh thành, khiến Sở Kiều lại bắt đầu lo lắng.
Thật ra tin tức cũng chẳng có gì đáng nói, chỉ nói đến chuyện Yến Tuân muốn tiến hành buôn bán với Đại Hạ ở biên cương, dùng ngựa cùng quặng sắt đổi lấy lương thực, trà, muối và vải vóc của Đại Hạ.
Chuyện này tất nhiên đã khiến triều đình Đại Hạ cười to một trận, bọn họ cười nhạo Bắc Yến nghèo đến phát điên rồi, lại muốn buôn bán thông thương với Đại Hạ. Bọn họ thiếu hụt chiến mã và quặng sắt thì vẫn có thể mua bán với Biện Đường và Hoài Tống. Bắc Yến thì khác, Biện Đường đóng cửa khẩu thì chỉ có thể tìm tới Đại Hạ mà thôi.
Đại Hạ dĩ nhiên cự tuyệt thông thương với Bắc Yến, Ngự sử đài và Trung thư lệnh lần đầu liên thủ, nhanh chóng viết thành một bài diễn văn dài thườn thượt châm biếm chuyện này, chế giễu Yến Tuân suy nghĩ viển vông, không biết trời cao đất rộng.
Sự kiện này đối với hai nước Hạ – Yến mà nói cũng chẳng phải đại sự gì, nhưng lại chỉ rõ tình cảnh xuống dốc và điêu tàn của Bắc Yến. Mặc dù Đại Hạ cũng chẳng khá hơn, nhưng nhìn dáng vẻ kẻ thù còn bất lực túng quẫn hơn mình, ý chí của đám quan lại Đại Hạ liền được nâng cao, một đám học sĩ suốt ngày điên cuồng hô hào tiêu diệt Bắc Yến, làm như chỉ cần bọn họ phất tay một cái thì Bắc Yến sẽ biến mất vậy. Ngay cả vài hoàng thân quốc thích ở xa cũng viết thư gửi cho Gia Cát Nguyệt, yêu cầu hắn lập tức điều binh tấn công Bắc Yến, nhanh chóng tiêu trừ tận gốc mối họa này.
Gia Cát Nguyệt lạnh lùng nhìn đám quan tướng trên triều vung tay múa chân, không khỏi cười giễu cợt: “Thủ đoạn của Yến Tuân không hẳn là quá cao minh, nhưng thật sự là hốt thuốc đúng bệnh, chỉ nói mấy câu mà đã khiến trên dưới toàn thành Chân Hoàng điên cuồng như vậy.”
Lúc hắn nói lời này, Sở Kiều chỉ cảm thấy hãi hùng khiếρ vía. Suy nghĩ của Gia Cát Nguyệt đã cao hơn hẳn một bậc so với người thường, biết Yến Tuân là cố ý tỏ ra yếu thế, muốn dẫn dụ Đại Hạ xuất quân tấn công. Nhưng Sở Kiều và Yến Tuân qua lại nhiều năm, nàng rõ bản tính của Yến Tuân hơn ai hết, người này cho dù phải bỏ mạng nơi sa trường cũng tuyệt đối không tỏ ra yếu thế trước kẻ thù bao giờ. Chỉ vì muốn khiến kẻ địch lơ là mất cảnh giác, đáng để người nọ hy sinh nhiều như vậy sao?
Đông qua xuân đến, hoa đã nở rộ nhưng gió lạnh vẫn chậm rãi không tan. Mở cửa sổ ra vẫn có thể nhìn thấy băng tuyết bao trùm.
Năm nay mùa đông hình như đặc biệt rất dài.
Tags: Nam cường, Nữ cường, Truyện cổ trang, Truyện Happy Ending, Truyện ngôn tình, Truyện Trung Quốc, Truyện xuyên không