Quá trưa, bên ngoài có người gọi cửa mà hồi lâu vẫn không thấy ai lên tiếng, Hoàn Nhi đang ngủ trưa trong phòng nghe được liền vội vàng bật dậy choàng áo chạy ra. Hoàn Nhi năm nay mười chín, đã được thăng thành đại nha hoàn trong Thanh Sơn viện từ vài năm trước. Nàng mở cửa ra thì nhìn thấy Nguyệt Thất đang đứng bên ngoài, áo tơi còn vương sương giá, mặt tái xanh vì lạnh thì hốt hoảng, sốt ruột hỏi: “Làm sao lại nhếch nhác như vậy?”
Nguyệt Thất cũng không trả lời mà hỏi: “Thiếu gia đâu?”
“Lúc sáng thiếu gia đã đến rừng mai sau núi rồi, có Thanh Hỉ và Giáp Nhi đi theo, có chuyện gì vậy?”
“Mau dẫn ta đến đó.”
Thấy mặt Nguyệt Thất đầy vẻ lo âu, Hoàn Nhi vội vã xỏ nốt tay áo còn lại, lập tức đóng cửa ra ngoài, vừa chạy vừa nói: “Đi theo ta.”
Song Hoàn Nhi vừa đi được một bước thì lại thấy Nguyệt Thất nép sang một bên, một người phụ nữ vận váy lụa trắng lả lướt, vạt váy thêu sóng nước bằng chỉ màu xanh nhạt, kiểu dáng đơn giản nhưng lại vô cùng hợp với dáng vẻ mảnh mai của nàng. Khuôn mặt trang điểm nhẹ, làn mi cong νút, dung mạo cực đẹp nhưng sắc mặt hơi xanh càng tăng thêm vẻ hao gầy.
“Biểu tiểu thư, xin mời đi bên này.” Nguyệt Thất cung kính nói, thấy Hoàn Nhi còn sững sờ đứng ngây ra tại chỗ thì vội vàng giục: “Sao còn không đi?”
“A!” Hoàn Nhi bừng tỉnh, lập tức đi trước dẫn đường.
Hôm qua trời đổ sương tuyết nên hoa mai trong rừng đều nở rộ, trắng hồng xen kẽ rợp cành, nổi bật trên nền đất được phủ một lớp tuyết mỏng khiến người xem lóa mắt. Ánh mặt trời rực rỡ mà không chói chang chiếu xuống xen qua cành lá, để lại những cái bóng loang lổ trên hàng ghế đá.
Thanh Hỉ và Giáp Nhi đứng dưới một gốc mai già dõi mắt nhìn ở đằng xa, thỉnh thoảng lại chụm đầu nhỏ giọng thì thầm.
Lúc Hoàn Nhi chạy đến thì trời chợt nổi gió khiến cánh mai rụng lả tả. Sâu bên trong rừng mai là bóng dáng một nam tử áo xanh nhạt đang ngồi ngay ngắn trên ghế đá, tay cầm bút lông sói, mắt nhìn hàn mai chăm chú vẽ tranh. Ấm nước trên chiếc lò nhỏ bên cạnh hắn đang sôi lăn tăn, trước mặt là một nghiên mực Huy Châu thượng hạng, một thân mũ trùm liền áo, vạt áo khẽ lay động theo từng cử động của tay, tròng mắt như hắc ngọc, môi như điểm son. Gió thổi cánh mai rơi trên đầu vai nam nhân, trong nháy mắt, hình ảnh đó như có thể khiến người nhìn mất hồn.
Quang cảnh tĩnh lặng cùng bầu không khí thanh lãnh chợt khiến tiểu nha hoàn bất giác có hơi thất thần. Lần này trở lại thiếu gia dường như gầy đi rất nhiều, tuy dáng vẻ vẫn cao ngạo lạnh lẽo như cũ nhưng bản thân dù sao cũng đã hầu hạ hắn nhiều năm như vậy, Hoàn Nhi vẫn nhạy cảm nhận thấy được rằng thiếu gia tựa như có gì không giống trước.
Đang nói chuyện sẽ bất chợt thất thần, lúc ăn cơm sẽ bất giác ngừng đũa, thỉnh thoảng đọc sách thì dáng vẻ như rất chăm chú, nhưng đến tối khi nàng đến dọn dẹp thư phòng thì lại phát hiện trang sách vẫn được lật ở vị trí ngày hôm kia.
Nàng nghe người ta nói, lần này thiếu gia phạm lỗi nên vị trí trong gia tộc bị xuống dốc, bị lão gia phạt quỳ ba ngày ba đêm ở miếu tổ tông, sau đó thì bị giam lỏng bên trong Thanh Sơn viện, không được phép bước chân ra ngoài.
Thiếu gia ngày thường lầm lì khó gần, quan hệ cũng không quá tốt với các huynh đệ tỷ muội khác trong gia tộc, lần này bị thất thế mà cũng không một ai ra mặt nói giúp một câu, ngược lại còn có không biết bao nhiêu người vì vậy mà âm thầm vỗ tay. Hiện tại Đại thiếu gia vừa trở về phủ đã được giao phó trọng trách chủ trì hậu cần quân Bắc Phạt, vì thế Tứ thiếu gia dĩ nhiên càng thêm không được trọng dụng. Có lẽ thiếu gia gần đây phiền lòng chính là vì chuyện này.
Haiz, một người ngày thường vốn kiêu ngạo mà đột nhiên lại rơi vào tình trạng như vậy… Khó trách… Hoàn Nhi nhướng mày, bặm môi thầm ca thán.
Thiếu gia nhà nàng thật sự không tệ, so với chủ tử các viện khác thì tốt hơn không biết bao nhiêu lần, nhưng người khác đa phần đều bị bề ngoài của thiếu gia dọa chạy xa mấy thước.
Giật lấy áo choàng trên tay Thanh Hỉ, Hoàn Nhi cau mày, bực bội nói: “Ngủ mơ hết rồi sao? Nuôi các ngươi có ích lợi gì chứ?”
Dứt lời, nàng liền cầm áo choàng lông bạch hồ chạy tới khoác lên vai Gia Cát Nguyệt, nói: “Thiếu gia, trời lạnh như thế này, hay là trở về đi?”
Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu, ngước đôi mắt thanh tĩnh như hồ băng lên nhìn tiểu nha hoàn, không cần nói nhưng ánh mắt cũng đủ nói rõ mọi ý tứ.
Hoàn Nhi vội vàng biết phận lùi lại, cung kính nói: “Nguyệt Thất dẫn một vị tiểu thư đến, nói có chuyện quan trọng muốn gặp thiếu gia.”
Gia Cát Nguyệt hơi nhướng mi, để bút lông xuống, nói: “Cho bọn họ vào đi.”
Lúc người phụ nữ đi vào vườn, cánh mai cùng tuyết đọng bị gió thổi bay lất phất. Thời điểm bốn mắt nhìn nhau, khuôn mặt cao ngạo của Gia Cát Nguyệt thoáng lộ vẻ hơi kinh ngạc. Nam nhân khẽ cau mày, đứng dậy giở mũ trùm đầu ra, lặng lẽ nhìn cô gái đang đạp tuyết tiến lại gần.
“Tiểu Tứ.” Người phụ nữ mỉm cười.
Ở thời đại này nàng cũng không được tính là trẻ tuổi, dáng vẻ khoảng hai mươi bốn hai mươi lăm, khóe mắt ẩn hiện vài vết chân chim rất nhạt, biểu thị cuộc sống cũng không thật mỹ mãn, giọng nói mềm mại như nước.
Người phụ nữ chậm rãi đi đến trước mặt Gia Cát Nguyệt, thản nhiên cất giọng nói như nàng và hắn vẫn trò chuyện hàng ngày: “Đúng là vẫn tùy hứng như vậy. Trời lạnh thế này, người khác đều ở lì trong phòng sưởi than nhưng cậu lại chạy tới đây hứng gió. Thân thể làm bằng sắt hay sao chứ?”
Trong một thoáng, năm tháng như quay ngược lại, người vẫn như cũ, vẫn tiếng nói ấy, nhưng sâu thẳm vẫn có gì đó đã thay đổi. Gia Cát Nguyệt mở môi như muốn nói nhưng lời lại không ra khỏi miệng.
Sau khi bình ổn nhịp thở, nam nhân khoan thai lui về phía sau một bước, chậm rãi nói: “Hách Liên phu nhân.”
Nụ cười trên môi người phụ nữ nhất thời cứng lại, nàng khẽ cắn môi dưới, cuối cùng nở một nụ cười khổ, thở dài nói: “Không thể mời ta ngồi xuống sao?”
Gia Cát Nguyệt gật đầu, nói: “Mời ngồi.”
Gia Cát Nguyệt lệnh cho Hoàn Nhi thay trà sữa trong ấm thành trà xanh, tiểu nha hoàn vội vàng đổi xong liền cùng đám người Nguyệt Thất lui ra.
Người phụ nữ cười một tiếng, nói: “Đa tạ, ra cậu còn nhớ ta vốn không thích mùi trà sữa.”
Gia Cát Nguyệt vẫn trầm mặc không nói lời nào.
Người phụ nữ hơi lúng túng, im lặng suy nghĩ một lát rồi nói: “Ta có nghe nói hết cả rồi, cậu vẫn ổn chứ?”
Gia Cát Nguyệt lãnh đạm cười một tiếng, khách khí đáp lời: “Rất ổn.”
Rừng mai vô cùng tĩnh lặng, không gian chỉ có tiếng cánh mai cùng bông tuyết rơi lất phất.
Người phụ nữ khẽ thở dài, “Tiểu Tứ, chúng ta đã chín năm không gặp, đừng bảo cậu chỉ định nói với ta hai chữ đó thôi đấy chứ?”
Gia Cát Nguyệt nhàn nhạt đáp lời, cất giọng vô cùng bình thản, “Không biết Hách Liên phu nhân hôm nay đến thăm nên không thể đón tiếp từ sớm, thất lễ rồi.”
“Hách Liên phu nhân gì chứ?” Người phụ nữ khẽ hừ, ngữ khí hàm chứa vẻ tự giễu cùng bi thương khó tả, “Hách Liên thị suy tàn, cây đổ bầy khỉ tan. Không nhờ có dì thì ta đã chẳng còn sống mà ngồi đây.”
Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mi tâm, cúi đầu không nói.
Người phụ nữ ngẩng đầu lên, cong khóe miệng nở một nụ cười rồi nói: “Ta biết, sau khi dì đến cầu xin cậu, cậu đã đánh tiếng cho Hình bộ thả ta ra, còn giúp ta xóa đi nô tịch, không thì, không thì…” Nói tới đây, nước mắt lại rơi lã chã trên mặt người phụ nữ.
Gia Cát Nguyệt nhíu mày càng chặt hơn, trầm giọng nói: “Chuyện không đáng để bụng, cho dù Nhị phu nhân không đến nhờ vả thì ta cũng sẽ giúp một tay.”
“Tương trợ lúc khó khăn mới thật đáng quý. Năm đó khi Hách Liên thị còn lừng lẫy vinh quang, người trong gia tộc đều tranh nhau nịnh bợ ta. Nhưng khi rủi ro ập đến thì bọn họ đều biến sạch, chỉ hận không thể tống cổ ta ra khỏi cổng. Khi ấy cũng chỉ có cậu chìa tay giúp đỡ mà thôi.”
Cũng chẳng rõ có phải vì hơi mất kiên nhẫn hay không mà Gia Cát Nguyệt lại khẽ thở dài, hỏi: “Lần này cô trở lại có dự định gì không?”
Người phụ nữ cúi gằm, nhẹ nhàng lắc đầu: “Ta cũng không biết, dì đã lớn tuổi, chi thứ hai cũng đã sớm không còn ai. Năm đó tuy ta nói là được nhận nuôi nhưng cũng không được ghi vào gia phả, huống chi hiện giờ ta còn là người mang tội. Đi được bước nào hay bước đó mà thôi, khi nào không còn đường đi nữa thì đã có một dải lụa trắng chờ sẵn.”
Gia Cát Nguyệt lại cau mày, “Ta có ít sản nghiệp bên ngoài, không chê thì ta có thể bảo Nguyệt Thất thu xếp cho cô.”
Người phụ nữ cẩn thận liếc mắt ngó chừng Gia Cát Nguyệt, bất giác cảm thấy đời người tan rồi hợp, hợp rồi tan, biến chuyển liên tục như bọt nước, khi tỉnh lại thì tất cả đều như một giấc mộng.
Năm tháng trôi qua như một cái chớp mắt, cậu thiếu niên lầm lì bướng bỉnh đã sớm trưởng thành. Nam tử trước mắt tuấn tú cao ngạo, cho dù tạm thời bị giam lỏng nhưng cũng không ảnh hưởng gì đến hào quang cùng vẻ uy vũ trên người hắn, khí tức thanh tĩnh đặc biệt kia rất hiếm người có thể sánh được.
Hồi tưởng lại những năm vừa qua, người phụ nữ đột nhiên cảm thấy chán chường mệt mỏi đến cực độ, nàng chậm rãi thở dài một hơi, nhẹ giọng nói: “Ta biết, dẫu khắp thiên hạ không có chỗ cho ta an thân thì cậu cũng sẽ không bao giờ cự tuyệt để ta vào cửa.”
Giọng nói nhẹ như gió nhưng lại như một hòn đá vừa rơi xuống phá vỡ mặt hồ đóng băng. Trong một thoáng, ký ức mười hai năm trước như ở ngay trước mắt, đứa bé gái mồ côi tan cửa nát nhà đến nương nhờ họ hàng bị từ chối ngay ở ngoài cổng. Nhị phu nhân của Gia Cát gia là dì ruột của cô bé nhưng lại nhát gan sợ phiền nên không dám giơ tay giúp đỡ. Khi đó cậu thiếu niên mười tuổi vừa trở về từ Giảng Vũ Đường, đúng lúc gặp phải cô bé đứng khóc ở trước cửa. Cậu thiếu niên đứng một bên hồi lâu, lẳng lặng nhìn các anh chị em trong gia tộc hùa nhau ức hiếρ đứa bé gái thân đơn thế cô, ánh mắt sâu thẳm không hề giống một đứa trẻ mới lên mười.
Cuối cùng, trong tiếng cười đùa chế giễu của đám người, cậu thiếu niên bất chợt tiến lên kéo tay đứa bé gái đi về viện của mình. Đại phu nhân ở phía sau cao giọng quát mắng, cậu thiếu niên chỉ tiện tay quăng cho quản gia một tờ ngân phiếu, thản nhiên bỏ lại một câu ‘Chi phí ăn uống.’ rồi nghênh ngang rời đi.
Cứ như thế, đứa bé gái ở lại Thanh Sơn viện dưới sự che chở của cậu thiếu niên suốt ba năm, về sau, có hắn an bài, cô bé được Nhị phu nhân nhận nuôi, thân phận trở thành tiểu thư thế gia. Cũng nhờ vậy mà sau này lúc vừa tròn mười lăm nàng mới có thể nhảy lên trở thành phu nhân của trưởng nam dòng chính Hách Liên thị, cho dù phu quân của nàng khi ấy chính là một lão già hơn năm mươi.
Năm đó nam tử trước mắt còn nhỏ tuổi, tuy tính tình lầm lì khó gần nhưng dù sao cũng chỉ là một đứa trẻ, ở chung lâu ngày thì vẻ ngoài lạnh lùng cũng phai nhạt phần nào, thậm chí hai người bọn họ còn có mấy phần thân thuộc vì đồng chung cảnh ngộ.
Hắn năm đó là một tiểu tử cực kỳ cố chấp, nàng còn nhớ rõ, vì muốn thuần hóa một con chó săn, hắn đã tay không vật nhau với con chó đó cả ngày trời, đến khi tay chân bị cắn đến đầy thương tích mới rốt cuộc thành công khiến con vật kia phục tùng.
Gia Cát lão gia hỏi hắn: “Tại sao không để cho người thuần chó huấn luyện?”
Hắn lại hỏi ngược lại: “Đây là chó của con hay chó của hắn?”
Khi ấy địa vị trong gia tộc của hắn cao hơn huynh đệ cùng lứa rất nhiều, không hề vì mẫu thân mất sớm mà bị khinh thị.
Nhị thiếu gia Gia Cát Nghĩa của Đại phòng từ trước đến nay vốn là hỗn thế ma vương trong phủ, ỷ là con thân sinh của Đại phu nhân, lại có Đại công tử Gia Cát Hoài làm chỗ dựa nên ngang ngược đã thành tính, hắn thấy Gia Cát Nguyệt được phụ thân coi trọng nên đã mấy lần mò tới Thanh Sơn viện gây rối. Có một lần hắn náo loạn nói muốn con chó của Gia Cát Nguyệt, Gia Cát Nguyệt không đồng ý hắn liền năn nỉ Đại phu nhân giúp. Đại phu nhân nhân dịp Gia Cát Nguyệt đến Giảng Vũ Đường học liền bắt con chó kia về viện của mình. Gia Cát Nguyệt trở về biết được lập tức đi đến Hoàng Sơn viện, vừa vào cửa thì phát hiện con chó kia đang quấn quít dưới chân Gia Cát Nghĩa chờ được cho ăn xương. Khi ấy, cậu thiếu niên không nói lời nào, trực tiếp đi tới đâm một kiếm vào cổ chó khiến máu bắn đầy người. Tất cả mọi người hoảng hốt kêu lên rồi chạy tán loạn, chỉ có hắn vẫn đứng yên tại chỗ, cúi xuống vuốt ve đầu con chó đang nằm co quắp trên mặt đất, không hề nói gì mà chỉ lặng lẽ ở bên cạnh con vật cho đến khi nó trút hơi thở cuối cùng.
Khi đó cô bé còn nghĩ hắn đúng là một người dễ ghi thù. Về sau lớn lên, nàng mới từ từ hiểu ra, không hẳn là thù hận, hắn chẳng qua chỉ không chấp nhận được việc bị phản bội mà thôi.
Nhưng chính nàng cuối cùng lại tàn nhẫn phản bội hắn, ôm ấp mộng vinh hoa phú quý ung dung rời đi, bỏ lại một mình hắn trong Thanh Sơn viện rộng lớn vắng lặng nhường ấy.
Nhưng cũng may, bây giờ nàng đã trở lại. Nhớ lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, nàng cũng biết được bên dưới bộ dạng cao ngạo lạnh lùng này của hắn là gì. Nàng tin, tất cả rồi sẽ ổn, chỉ cần cho nàng thêm một cơ hội làm lại từ đầu.
Người phụ nữ đứng dậy đi đến bên cạnh Gia Cát Nguyệt, dịu dàng cúi người chỉnh sửa cổ áo cho hắn một chút rồi nhẹ giọng nói: “Ngoài này lạnh quá, ngồi thêm một lát thôi rồi trở về đi. Chúng ta đã lâu không gặp, hôm nay ta sẽ tự mình xuống bếp làm cho cậu chút thức ăn ngon.”
Gia Cát Nguyệt nhàn nhạt nhìn người phụ nữ, ánh mắt không lạnh lẽo như băng nhưng lại lãnh đạm xa cách của hắn bất giác khiến nàng hơi sợ hãi.
Trực giác cho biết có chút gì đó không ổn, người phụ nữ vội vã đứng lên, nói: “Ta về trước đây. Hôm… hôm khác sẽ trở lại thăm cậu.”
Gió lại nổi lên, bông tuyết và cánh mai lại rơi lả tả, lúc người phụ nữ xoay người chuẩn bị rời đi, Gia Cát Nguyệt đột nhiên mở miệng gọi: “Loan Loan.”
Người phụ nữ cũng không quay đầu lại, chỉ vội vàng nói: “Không cần tiễn, ta tự mình đi được.”
“Loan Loan!”
Âm thanh nam tử sau lưng chợt trở nên nghiêm nghị tựa như đã nhìn thấu suy nghĩ của người phụ nữ, khiến nàng bất giác tái mặt, dừng bước.
Ánh mắt Gia Cát Nguyệt trở nên xa xăm, hắn nhìn chăm chăm vào bóng lưng mảnh mai của người phụ nữ, thản nhiên nói: “Chuyện cô không thích mùi trà sữa từ lâu ta đã chẳng còn nhớ. Ta bảo hạ nhân đổi trà chỉ là vì ta đã hơi ngấy vị sữa, muốn đổi loại nào nhạt hơn mà thôi.”
Không còn lời nào có thể nói rõ tâm ý của nam nhân hơn thế này, nụ cười trên mặt người phụ nữ chợt tắt, sắc mặt trở nên tái nhợt, nàng không nói một lời liền rời đi, hệt như chưa từng đến đây.
Gia Cát Nguyệt mặt không đổi sắc cầm bút lông lên, chấm đầu bút vào nghiên mực rồi tiếp tục vẽ tranh.
Một lát sau, Nguyệt Thất tiến lên, Gia Cát Nguyệt cũng không buồn ngẩng lên, chỉ trầm giọng hỏi: “Chuyện ra sao?”
“Thuộc hạ cũng không rõ. Thuộc hạ vừa trở lại từ phương Bắc thì thấy biểu tiểu thư đứng ở cửa bị thị vệ canh cổng không cho vào, cho nên thuộc hạ mới dẫn nàng vào.”
“Ta đang hỏi ngươi tình hình phương Bắc thế nào rồi?”
Nguyệt Thất hơi ngẩn ra một thoáng rồi vội vàng đáp: “Đường bị bão tuyết phong tỏa nên tin tức không thông, nhưng thuộc hạ có nghe được thương lữ qua đường nói rằng thành Bắc Sóc đã bị bao vây hoàn toàn. Nội bộ Bắc Yến lại lục đục, nghe nói bọn họ gấp rút chiêu mộ quân đến mức ngay cả trẻ con mười tuổi cũng phát đao thương. Bão tuyết liên tiếp khiến Bắc Yến như bị chìm trong sương giá, dân chúng chết đói đếm không xuể, hỗn loạn dấy lên ở khắp nơi vì dân chạy nạn. Tình hình hiện tại vô cùng có lợi cho Đại Hạ ta.”
Ngòi bút của Gia Cát Nguyệt hơi khựng lại khiến một giọt mực nhỏ xuống thành đốm trên mặt giấy Tuyên Thành trắng muốt, hắn im lặng không nói nhưng mi tâm chậm rãi khẽ nhíu.
“Thiếu gia, cô nương đang ở trong thành Bắc Sóc, Bắc Yến cũng có người của chúng ta, trước mắt có cần giúp đỡ cô nương một tay không, ít nhất cũng không để cô nương rơi vào tay địch.”
Gia Cát Nguyệt khẽ nhướng mày, cất giọng thanh lãnh như tuyết, “Vì sao ta phải giúp nàng?”
Gia Cát Nguyệt đứng dậy, vóc dáng cao thon đứng giữa rừng mai trắng hồng xen kẽ nhìn như một bức họa.
Lẳng lặng đi được hai bước, nam nhân đột nhiên quay đầu lại, trầm giọng nói: “Về sau chớ có nhiều chuyện như vậy.”
Nguyệt Thất đổ mồi hôi lạnh đầy trán, vội vàng cúi người đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh, thuộc hạ về sau sẽ không lắm mồm như thế nữa.”
“Ta đang nói chuyện của biểu tiểu thư.”
Gia Cát Nguyệt sải bước rời đi, hai người Hoàn Nhi và Thanh Hỉ cũng vội vàng theo sau. Nguyệt Thất đứng trơ trọi trong rừng mai, cảm thấy sống lưng áo dường như đã ướt đẫm.
Gần đây tâm tình thiếu gia thực không được tốt, làm việc phải cẩn thận một chút thì hơn.
Nguyệt Thất tự nhủ với bản thân như vậy.
Ngay lúc đó, trời đột nhiên nổi gió lật tung một góc giấy Tuyên Thành trên bàn đá, Nguyệt Thất vội vàng tiến đến dằn bức tranh lại, vừa nhìn rõ hình họa trên giấy thì chợt sững sờ.
Thiếu gia ngồi hết nửa ngày trong rừng mai để vẽ tranh, ai cũng cho rằng thiếu gia đang vẽ cảnh rừng mai, chẳng ngờ trên giấy là cảnh một con phố dài náo nhiệt. Tranh được vẽ theo phong cách thủy mặc*, chỉ vài nét bút đơn giản đã có thể lột tả được phong cảnh người người tấp nập, tiểu thương, nô lệ cùng dân chúng qua lại như thoi đưa, đèn đường sáng lóa, vô cùng phồn hoa.
*Tranh thủy mặc hay tranh thủy mạc, là một loại hình hội họa khởi nguồn từ Trung Quốc. Thủy (水) là nước. Mặc (墨) là mực. Tranh thủy mặc được vẽ bằng mực nước, hay còn gọi là mực tàu trên giấy hoặc lụa. Tranh thủy mặc là loại hình phát triển cùng với nghệ thuật thư pháp Trung Hoa. Các chủ đề chính trong tranh thường là cây cối, hoa, phong cảnh, chim thú, người… và thường kèm theo thơ chữ Hán. đó là một phong cách cổ điển của người phương Đông. và học mang theo một tâm trạng buồn bã ưu tư hay sâu lắng về một cuộc đời, một phong cách sống trong mỗi chế độ khác nhau.
Đại Hạ vốn luôn quản chế nghiêm ngặt các hoạt động buôn bán, nên trừ những ngày lễ tết, đường phố ít khi náo nhiệt như thế này. Thế nhưng, nổi bật giữa đám đông nhộn nhịp là bóng lưng một cô gái ngồi trên lưng ngựa đang dần đi xa, hình dáng mảnh mai cao ngạo đó có hơi không phù hợp với cảnh vật xung quanh, thoang thoáng tỏa ra chút bi thương cô độc.
Hình dáng của cô gái kia cũng chỉ được phác họa bằng vài nét bút sơ lược, mơ hồ không rõ ràng, nhưng vật trong tay nàng lại được vẽ vô cùng tỉ mỉ. Đó là một nhành cây dài có buộc một sợi dây nhỏ, đầu dây là một con vật có tai dài mắt tròn, nhìn qua như một hoa đăng hình thỏ*.
*Xem lại chương 15 nhé.
Cảnh vẫn như cũ nhưng người đã khác. Con đường phồn hoa hiện vẫn còn đó, mỗi dịp tết Nguyên Tiêu lại vô cùng náo nhiệt, nhưng đứa trẻ năm kia thì đã sớm trưởng thành.
Nguyệt Thất đứng giữa rừng mai, khẽ thở dài một hơi rồi cuộn bức tranh lại. Gió đông nổi lên, cánh hoa lại rơi lả tả như mưa.
….
Hoàn Nhi theo Gia Cát Nguyệt trở về, vừa vào phòng liền nhanh chóng đi nấu nước pha trà.
Gia Cát Nguyệt ở trong phòng một lát thì đột nhiên cao giọng gọi người hầu khiến tiểu nha hoàn hớt hải chạy vào, vừa thở vừa hỏi: “Thiếu gia gọi có chuyện gì ạ?”
“Lấy nó xuống!”
“Dạ?” Hoàn Nhi sửng sốt, nhìn theo tay của Gia Cát Nguyệt thì nhận ra hắn đang chỉ bức tranh treo đầu giường. Tranh vẽ một đứa bé gái mặc váy vàng tuổi chỉ khoảng mười một mười hai, mắt sáng như sao, môi cười ngọt ngào, nhìn vô cùng đáng yêu. Bức tranh này được treo ở đây cũng đã hơn mười năm, chất giấy đã bắt đầu ố vàng. Tất cả hạ nhân trong viện đều biết bức tranh này đối với thiếu gia có ý nghĩa khác thường, ngày thường lau dọn cũng vô cùng cẩn thận chú ý.
Không ngờ hôm nay thiếu gia lại bảo nàng lấy nó xuống.
“Sao? Với không tới?”
“Dạ? À không, với được ạ.” Hoàn Nhi vội vàng bắc ghế leo lên, dè dặt lấy bức tranh xuống rồi ra sức giơ nó lên khỏi đỉnh đầu, cẩn thận hỏi: “Thiếu gia, lấy xuống rồi để ở đâu bây giờ?”
Gia Cát Nguyệt nhận lấy chén trà Thanh Hỉ vừa đưa uống một hớp rồi tùy ý nói: “Cho ngươi.”
“Dạ?” Hoàn Nhi suýt nữa té chỏng vó khỏi ghế, thấy Gia Cát Nguyệt không hề có ý nói đùa thì thấp thỏm cầm lấy bức tranh, mặt đầy lo lắng cùng hai tiểu nha hoàn khác lui ra khỏi phòng.
Gia Cát Nguyệt đi đến trước thư án được che kín bởi một tấm vải, lật vải ra để lộ một địa đồ khổng lồ trên bàn. Mô hình địa thế sông núi vô cùng tỉ mỉ, trên địa đồ được cắm rải rác những lá cờ nhỏ, một góc Tây Bắc lại được cắm đầy cờ, đủ năm màu hồng vàng lam lục và đen.
Gia Cát Nguyệt ngồi xuống ghế, nhìn địa đồ suy diễn hồi lâu.
Sau nửa canh giờ, nam nhân khẽ nhíu mày, chậm rãi nói: “Mục tiêu không phải Bắc Sóc, là cửa khẩu Xích Nguyên mới đúng.”
….
“Không phải Bắc Sóc! Mục tiêu kế tiếp của quân Hạ chính là cửa khẩu Xích Nguyên!” Thiếu nữ cau mày, nói bằng giọng sắc bén: “Đã ba ngày mà quân Hạ chỉ xua binh đánh vài trận công kich quy mô nhỏ chứ không hề có ý định tổng tấn công, thực bất thường, vô cùng không bình thường. Dựa vào binh lực của Đại Hạ, sau khi hợp binh bọn họ sớm phải ào ạt tấn công Bắc Sóc mới đúng. Nhưng với tình hình hiện tại, xem ra quân Hạ xảy ra bất đồng nội bộ, tụ hợp ở đây chắc chắn không phải là quân chủ lực…”
“Có tin tình báo gì mới không?” Tào đại tướng quân Tào Mạnh Đồng như không hề nghe thấy lời thiếu nữ, vừa ngáp to vừa nói với đám thuộc hạ: “Không chừng huynh đệ Triệu Tề đã bị trăm vạn đại quân của ta dọa cho vỡ mật mà quên béng nhiệm vụ lão cha già giao phó rồi.”
Tất cả mọi người nghe nói đều nhất thời cười lớn. Ba ngày nay, quân Bắc Yến toàn đánh đâu thắng đó, vừa lâm trận quân Đại Hạ liền như khối đậu hũ, đụng vào liền vỡ tan thành năm bảy mảnh. Dường như giữa Triệu Tề và Triệu Dương xuất hiện lục đục nội bộ, liên quân Tây Bắc rõ ràng có khuynh hướng đi theo Thập Tứ hoàng tử Triệu Dương vừa được trọng dụng gần đây, còn quân của Ba Đồ Cáp thì về phe của Triệu Tề. Mỗi lần tấn công, nhân mã hai người không phải ngươi làm rối loạn thế trận quân ta thì chính là ta chạy vào cánh trái nhiễu loạn quân ngươi, căn bản không ra trận hình gì, ai cũng chỉ một lòng muốn dẫn đầu ra oai trước tiên.
Quân Bắc Yến còn chưa bắn xong trận mưa tên đầu tiên thì quân Hạ đã kêu to ‘Không ổn! Không trụ được nữa rồi’, sau đó liền vội vàng rút lui, trẻ con lên mười đánh trận còn mạnh mẽ hơn bọn họ. Trong thành Bắc Sóc tập hợp hơn sáu mươi vạn quân chính quy, cộng thêm hơn ba mươi vạn dân binh, tính ra thì đại quân tổng cộng có đến hơn trăm vạn người. Ban đầu tất cả còn chút e ngại cùng cố kỵ khi đối đầu với quân Đại Hạ thiết huyết mạnh mẽ, nhưng sau khi đánh vài trận, bây giờ ngay cả đám dân binh cũng dám cầm đuốc xông ra thẳng tiến.
“Xem ra không cần chờ điện hạ trở lại chúng ta cũng có thể đuổi đám quân của chó Hạ trở về thành Chân Hoàng rồi.”
Tất cả ha hả cười lên, Tào Mạnh Đồng ngồi xuống ghế chủ vị, thẳng thắn nói: “Theo ta thấy, bây giờ chúng ta nên chia làm hai, một nửa quân đi giúp điện hạ đánh Mỹ Lâm Quan thì hơn.”
“Không cần thiết, chẳng bằng chúng ta cứ đuổi theo tàn binh của chó Hạ, một mạch đánh thẳng vào đế đô luôn cho gọn.”
“Đúng đó!” Lời vừa nói ra, tất cả đều nhiệt liệt hưởng ứng, giống như chiến thắng đã ở ngay trước mắt.
“Tào tướng quân!” Sở Kiều đứng dậy, trong mắt như có điện, trầm giọng nói: “Nếu vừa rồi Tào tướng quân cùng chư vị đại nhân không nghe rõ lời ta nói thì ta cũng không ngại lặp lại lần nữa! Chúng ta cho đến giờ còn chưa thăm dò rõ ràng quân chủ lực của địch đang ở đâu, nhìn sơ đều có thể thấy quân tấn công ta chỉ toàn là đội ngũ nhỏ dưới một vạn người, đại kỳ thống soái có cũng không thấy bóng dáng của kỵ binh chủ lực. Tin tức tình báo bị bão tuyết phong tỏa, đến giờ đại doanh của kẻ địch đóng ở đâu chúng ta còn chưa biết mà đã muốn tấn công thì quả thực là trò đùa! Gia tộc Ba Đồ Cáp và liên quân Tây Bắc thì ta không chắc nhưng ta biết rõ con người của Tam hoàng tử Triệu Tề, hơn nữa còn từng trực tiếp đụng độ với Thập Tứ hoàng tử Triệu Dương. Triệu Tề là người kỹ tính, hành sự cẩn trọng có thừa, trước khi động thủ luôn nghiêm túc suy xét tiền căn hậu quả, tuyệt đối sẽ không háo thắng dẫn quân tấn công một cách rầm rộ, mà có đánh thì thủ đoạn cũng sẽ không vụng về như vậy. Về phần Triệu Dương, người này tuy còn trẻ nhưng vốn xuất thân là tướng cấp cao ở Giảng Vũ Đường, ngoài việc biết lo xa nghĩ rộng thì còn rất thành thạo binh pháp. Hắn trị quân nghiêm khắc, tác chiến linh hoạt, am hiểu đánh giáp lá cà cùng công thành, không những dày dạn kinh nghiệm trong việc dẫn dắt đại quân có số lượng lớn mà còn sở hữu tính kiên nhẫn cao độ, rất giỏi phục kich, trong quân Hạ có biệt danh là rắn hổ mang. Người như hắn tuyệt đối sẽ không sử dụng loại phương pháp tấn công tự sát như vậy!
Xin chư vị đại nhân cẩn thận ngẫm nghĩ mà xem, Đại Hạ xưng bá gần trăm năm, thế lực làm sao chỉ có thế? Bọn họ chỉ muốn che mắt chúng ta, khiến chúng ta khinh địch mà thôi! Nếu như ta đoán không nhầm thì hiện tại Triệu Tề và Triệu Dương nhất định không hề có mặt trong đội quân này. Đường đến Bắc Yến cũng không phải chỉ có một lối, nếu ta là chủ soái của quân Hạ thì sẽ đi vòng qua núi Hạ Lan, dùng lối tắt ở khe núi Thường Âm để tấn công cửa khẩu Xích Nguyên. Một khi cửa khẩu Xích Nguyên bị đóng chiếm, khi đó Bắc Sóc sẽ rơi vào tình thế hai mặt bị giáp công, tất tự sụp đổ! Cũng may, tuy bị chậm mất ba ngày, nhưng bây giờ chúng ta hành động vẫn còn kịp, chỉ cần đưa hai mươi vạn binh đến phòng thủ ở Xích Nguyên, tranh thủ lợi thế địa hình vẫn có thể ngăn được quân Hạ. Cơ hội chỉ có một, xin chư vị tự cẩn thận suy xét!”
Không gian tĩnh lặng như chết.
Mọi người đều ngẩng đầu lên, trong phòng họp rộng lớn, thiếu nữ mặc quân phục hơi cau mày đứng đó, sống lưng cao thẳng, ánh mắt sáng rực như sao đang nghiêm túc nhìn tất cả, trong mắt hàm chứa sự chờ đợi cùng chút tức giận mơ hồ.
Nếp nhăn trên mặt Tào Mạnh Đồng khẽ động, ông ta đột nhiên đứng dậy, không nói tiếng nào liền ung dung đi ra khỏi cửa. Hành động này đã nói rõ tâm tình của thống soái, không đầy một chốc, bên trong phòng họp rộng lớn không còn một bóng người nào khác ngoài Sở Kiều.
Thiếu nữ thở dài một hơi, vô lực ngồi xuống ghế, đưa tay đỡ trán, khóe mắt hơi rưng rưng.
Gần trăm vạn sinh mạng giao phó vào tay đạo quân ô hợp này, quả thực chính là tự sát. Không ngờ tố chất của quân nhân Bắc Yến lại kém đến độ này, để cho người không chút kinh nghiệm tác chiến chỉ huy chính là tai họa khủng khiếρ nhất đối với một đội quân.
Yến Tuân có biết tình trạng này không? Nếu như là Yến Tuân thì chàng còn có thể dùng uy thế của mình trấn áp đám người này. Nhưng Yến Tuân hiện ở xa ngàn dặm, nàng phải làm gì để thay đổi cục diện đây?
Những lão già này của Đại Đồng Hành, khả năng tranh cãi biện luận thì hơn bất kỳ ai khác, miệng hô khẩu hiệu lớn không thua ai, năng lực kich động dân chúng cũng là hạng nhất. Nhưng nếu trông chờ bọn họ dẫn binh đánh giặc, đề ra kế hoạch tác chiến hay có thể nhìn thấu phòng ngự của địch thì có lẽ còn khuya mới thành công!
Trong lòng Sở Kiều như có ngọn lửa không thể nào dập tắt. Nàng đã phái người đi báo cho Vũ cô nương nhưng đến nay ngay cả một người cũng không thấy trở lại. Hiện tại nếu không có người đứng lên dẫn dắt cục diện, trận chiến này Bắc Yến sẽ thua chắc!
Trời hoàng hôn đỏ như máu, bên ngoài vang vọng tiếng ca hát cười đùa của binh lính, xen lẫn tiếng cười non nớt của trẻ con. Sở Kiều không biết âm thanh vui vẻ này còn có thể kéo dài thêm được bao lâu, cũng như không biết những người bên ngoài còn có thể sống thêm được bao nhiêu ngày. Nếu như nàng có quân đội riêng của mình, cho dù chỉ một trăm người thì nàng cũng nhất định lập tức đi trói gô đám quan quân đại gian đại ác kia. Nhưng hiện tại, một người để đi truyền tin nàng cũng không có, tất cả vệ binh Yến Tuân để lại đều đã được nàng phái ra ngoài tìm Vũ cô nương rồi.
Hay là khuya hôm nay lẻn vào giết phăng đám lão già kia nhỉ?
Ý nghĩ này chợt lóe lên trong đầu, Sở Kiều u sầu chau mày. Nếu bây giờ có một khẩu AK tự động trong tay, nàng nhất định sẽ không đắn đo cân nhắc biện pháp này.
Bên ngoài trời đã tối, Sở Kiều chậm rãi đứng dậy, ánh trăng xuyên qua song cửa sổ hắt lên mặt đất thành những vệt sáng trắng. Trong bóng đêm, thân ảnh mảnh mai của nàng chất chứa vẻ cô độc cùng bất lực nặng nề.
Sở Kiều vừa ra khỏi phủ thành thủ thì chợt thấy có mấy tiểu binh hớt hải chạy tới. Cậu đi đầu bất cẩn đâm sầm vào người nàng, nhìn thấy y phục đắt tiền trên người nàng thì đột nhiên tỉnh ngộ, lập tức quỳ phịch xuống trên mặt đất, miệng liên tục nói xin lỗi.
Những người này vốn xuất thân nông nô, chưa quen với cải cách của Bắc Yến nên vẫn theo thói ra đường gặp quan quân thì phải quỳ xuống dập đầu thỉnh an.
Sở Kiều nhìn thấy mấy tiểu binh này đều là trẻ con, lớn nhất cũng chỉ mười hai mười ba, còn nhỏ nhất thì chưa tới mười tuổi, đều cao chưa quá đầu ngọn thương. Ai cũng cầm gậy gỗ trong tay, đầu gậy có đóng một mẩu thép làm thành thương, loại binh khí này nếu mang lên chiến trường thì một hiệp cũng không trụ được. Trang bị vũ khí của Đại Hạ vốn nổi danh tinh chuẩn dễ dàng đâm thủng giáp trụ dày nhất, dĩ nhiên sẽ không tốn chút sức lực cũng có thể chém gãy vật gọi là ‘thương’ trong tay bọn trẻ này.
Nhìn đám trẻ ăn mặc tồi tàn được xem như lực lượng chủ yếu của thành Bắc Sóc, Sở Kiều chợt cảm thấy vô cùng bất lực, bản thân như bị chìm trong nước biển lạnh giá, bị tảo biển quấn chân, giãy giụa cỡ nào cũng không thể trồi lên.
Sở Kiều nhíu chặt mày, tim như bị ai đó bóp chặt. Sau khi Yến Tuân đi, Tào Mạnh Đồng tùy tiện thay đổi phương thức quản quân, cho toàn bộ nạn dân vào thành, nữ thành quân kỹ, nam nhập ngũ, người già làm dân phu. Chỉ trong một thời gian ngắn, thành Bắc Sóc liền trở thành một nơi như luyện ngục ma quỷ. Đám quan quân của Đại Đồng Hành này giống như một gã ăn mày trắng tay đột nhiên trở thành đế vương đứng trên vạn người, những hành động tàn bạo của bọn họ cơ hồ có thể khiến đám thế gia quý tộc ở Đại Hạ còn thấy mặc cảm vì thua kém. Sở Kiều mấy lần vào can gián đều bị từ chối từ ngoài cửa. Sau khi giết chết vài gã binh sĩ hung ác ức hiếρ người vô tội, những thường dân không nguyện ý chịu nô dịch đều chạy ra khỏi thành hoặc trốn vào bộ tham mưu. Hiện tại, trong cục đã đầy người là người.
Những kẻ này chính là chính quyền của Bắc Yến tự do, là bộ phận lãnh đạo đã nhiều năm đấu trong vì độc lập của Bắc Yến sao? Những kẻ này chính là niềm hy vọng về tương lai mà dân chúng Bắc Yến một lòng ủng hộ đó sao?
Sở Kiều hít sâu một hơi. Đáng thương cho dân chúng, bọn họ đang khua chiêng gõ trống đón chào kẻ tàn phá chính mình.
Thiếu nữ siết chặt nắm tay như muốn nghiền nát gì đó. Sau khi Yến Tuân trở về, nàng nhất định phải…
“Đại nhân.” Đứa trẻ dẫn đầu rụt rè hỏi: “Ngài là Sở đại nhân của bộ tham mưu có đúng không?”
Sở Kiều cúi đầu xuống, thấy cậu bé này chỉ khoảng mười một mười hai tuổi, cánh tay gầy như que củi bẻ cái là gãy, mặt mày xanh xao vì thiếu dinh dưỡng, chỉ có đôi mắt là sáng ngời mỗi khi khẽ chớp, vừa đen vừa hết sức linh động. Cậu bé mặc trên người một chiếc áo ngắn cũ rách, bên ngoài khoác áo bông thủng lỗ chỗ lộ hết cả sợi bông nhồi bên trong.
“Làm sao cậu biết là ta?”
“Trong quân chỉ có một vị nữ đại nhân mà thôi!” Cậu bé vui vẻ nói: “Đại nhân, chúng ta đều nghe nói ngài rất vĩ đại!”
Đám nhỏ đằng sau cũng nhào lại, không ngừng liến thoáng: “Tỷ tỷ ta đang ở trong bộ tham mưu, là được đại nhân cứu! Đại nhân có biết tỷ ấy không?”
“Mẹ ta cũng ở đấy!”
“Đại nhân, hôm trước chúng ta có nhìn thấy ngài chém gã lính kia! Đại nhân thực lợi hại!”
“Đúng đúng, đại nhân có thể chỉ có chúng ta vài chiêu, chúng ta sắp phải ra chiến trường rồi.”
“Phải đó, đại nhân, xin dạy cho chúng ta vài bí quyết giết địch với!”
“Đại nhân, một hai bí quyết thôi cũng được!”
Nhìn mặt đám trẻ chỉ trên dưới mười tuổi này, Sở Kiều đột nhiên cảm thấy tim như ngừng đập, nàng bắt đầu có chút hoài nghi tín ngưỡng của mình, hoài nghi giá trị của bản thân, hoài nghi tính xác thực trong mong ước của bản thân. Nàng thậm chí còn đột nhiên muốn quay đầu vọt vào trong phủ thành thủ, định hiện thực hóa cái ý nghĩ kinh hãi vừa lóe trong đầu khi nãy. Nhưng suy nghĩ cũng chỉ là suy nghĩ, thiếu nữ vẫn đứng yên không nhúc nhích, gì cũng không làm, ánh đuốc hắt lên mặt nàng, chập chờn đỏ rực như máu.
Thiếu nữ cất giọng trầm thấp nói gằn từng chữ một, ngữ khí ẩn cứ sự đè nén trăn trở, “Lúc công kich địch không nên đi ở đầu!”
Nói xong, dường như không thể chịu được nữa, nàng lập tức xoay người rời đi, để lại đám tiểu binh đang ngơ ngác nhìn theo. Bọn trẻ kỳ quái gãi gãi đầu, khó hiểu tự hỏi: Sao lời của đại nhân không giống với lời dặn của quan quân vậy nhỉ?
Sở Kiều đi đến một con phố dài quanh co thì dừng lại, nàng thật sự không có dũng khí tiếp tục đối mặt với ánh mắt của những đứa trẻ kia, càng không có khả năng cổ vũ bọn họ xông pha chiến trường, khích lệ lòng trung vì nước của bọn họ. Vốn cho rằng mình đã được chiến tranh tôi luyện trở thành mạnh mẽ cứng rắn như sắt, nhưng bây giờ nàng mới biết được, vẫn chưa đủ, hãy còn xa xa lắm.
“Tào đại nhân khó khăn lắm mới đánh thắng được một trận, cô lại đi nói đó là bởi vì Đại Hạ cố tình yếu thế để che mắt kẻ địch. Dĩ nhiên ông ta không muốn tin.”
Bên tai đột nhiên vang lên một giọng nói lãnh đạm, Sở Kiều quay đầu lại thì nhìn thấy Tiết Trí Viễn đang khoanh tay tựa người ở một góc tường liếc mắt nhìn nàng, vẻ mặt kia có vài phần hả hê.
Trong lòng hiện tại đã tràn đầy chán ghét đám quan quân xuất thân từ Đại Đồng Hành này, Sở Kiều hừ lạnh một tiếng rồi xoay người muốn rời đi.
“Điện hạ muốn vứt bỏ chúng ta sao?” Sở Kiều vừa đi được một bước thì Tiết Trí Viễn chợt quăng ra một câu hỏi kinh thiên động địa.
Nàng nhất thời dừng chân, chậm rãi quay đầu lại, ánh mắt trở nên sắc bén như đao, trầm giọng hỏi: “Ngươi nói cái gì?”
“Điện hạ và Ô tiên sinh đều là lãnh tụ quân sự hiện có của Bắc Yến, hai người bọn họ cùng nhau mang tinh binh của binh đoàn số 1 tấn công Mỹ Lâm Quan mà không lưu lại một người phòng phủ Bắc Sóc, để mặc cho chủ lực của binh đoàn số 2 trực diện đối đầu với quân Hạ, tiêu hao binh lực của nhau. Vũ cô nương là cao thủ quân sự lại chỉ trấn giữ Lạc Thành chứ không đến chi viện cho Bắc Sóc. Sở đại nhân am hiểu binh pháp như thế nhưng lại không được cầm quyền, cả thành Bắc Sóc rơi vào tay của một đám ô hợp không hiểu cầm binh. Ha ha… nếu không phải thấy Sở đại nhân còn ở lại Bắc Sóc, ta cứ tưởng điện hạ đã quyết ý vứt bỏ binh đoàn số 2 rồi chứ.”
Chỉ một thoáng đại não như bị một tia sét đánh vào, không hẳn là chưa từng nghĩ, nàng chỉ chẳng qua không muốn tin mà thôi.
Tào Mạnh Đồng là loại người gì, binh đoàn số 2 có thực lực ra sao, cách thức hành sự của Đại Đồng Hành, Yến Tuân sao có thể không biết? Yến Tuân lúc này muốn tấn công Mỹ Lâm Quan rốt cuộc là có ý đồ gì? Thật sự là muốn tiến đánh bất ngờ khiến quân Hạ không kịp trở tay, ngăn ngừa việc Bắc Sóc sau này phải chịu tình trạng hai mặt giáp công rồi vòng lại đánh hậu phương của quân Bắc Phạt? Hay là muốn kéo dài thời gian để quân Bắc Phạt và binh đoàn số 2 đánh đến lưỡng bại câu thương trong mười ngày này?
Nếu không thì vì sao lại giao quyền cho Tào Mạnh Đồng? Vì sao không để Ô tiên sinh trấn giữ Bắc Sóc? Vì sao không đưa nàng đến Lạc Thành gửi gắm Vũ cô nương? Vì sao nàng năm lần bảy lượt phái người đi tìm Vũ cô nương mà không một ai trở về?
Rốt cuộc là có nguyên nhân gì? Chẳng lẽ, thật sự như lời Tiết Trí Viễn nói, tất cả đều là kế hoạch của Yến Tuân? Mục đích chính là làm tiêu hao quân chủ lực của binh đoàn số 2, mượn tay Đại Hạ ổn định địa vị của bản thân ở Bắc Yến?
Thế nhưng, vì mục đích như vậy mà bỏ mặc cả triệu người dân, đẩy Bắc Yến vào hiểm cảnh, có đáng không? Yến Tuân thật có thể làm như vậy sao?
“Có điều, cho dù điện hạ thông minh thì Tào đại nhân cũng không phải đồ ngốc, thời gian mười ngày này, thí vài trăm ngàn dân binh tuyệt đối đủ cầm cự, đến khi điện hạ trở về thì tiêu hao cũng chỉ là thứ quân, quân chủ lực vẫn không chút hao tổn. Chủ ý này của điện hạ xem ra không thành rồi.”
“Ở quê hương của ta, tự tiện phỏng đoán chỉ huy của mình là tội phải xử theo quân pháp!” Thiếu nữ liếc mắt, đột nhiên lạnh giọng nói.
Tiết Trí Viễn còn đang sửng sốt thì Sở Kiều đã lạnh lùng tiếp lời: “Ngươi chớ khiêu khích hoài công! Cho dù nội bộ Bắc Yến bất ổn, Đại Đồng Hành tranh đoạt quyền lợi không ngừng, nhưng điện hạ còn chưa đến mức dùng cả thành Bắc Sóc để làm vật cược! Cho dù thật sự đúng như lời ngươi nói, nhưng ta tin huynh ấy không phải là loại người vì quyền lực mà không từ mọi thủ đoạn. Từ góc độ chiến lược mà nói, điện hạ tấn công Mỹ Lâm Quan đích xác là một chiêu tập kich hoàn mỹ, theo binh pháp thì không có bất cứ sai sót gì. Còn việc Vũ cô nương vì sao vẫn không có tin, nhất định có nội tình gì mà chúng ta không biết. Trận đánh này quan hệ đến sinh tử của cả Bắc Yến, chỉ có kẻ ngu muội mới vẫn mù quáng toan tính chuyện tranh đoạt quyền lợi. Bắc Yến diệt vong thì chính quyền lãnh đạo tất sụp đổ, đến lúc đó tất cả mọi người chỉ có thể cùng nhau lên đường đến hoàng tuyền mà thôi. Ngươi rảnh rỗi như vậy sao không đi huấn luyện tân binh đi? Tương lai còn tránh được việc khỏi chết thảm!”
Tiết Trí Viễn nhướng mày, lạnh lùng nói: “Nếu đại nhân đã có lòng tin như vậy, tại sao còn nhiều lần phái nhân mã đi tìm Vũ cô nương? Nếu mọi chuyện thật như lời đại nhân, ba ngày cũng đủ để từ Lạc Thành chạy đến đây, vì sao đến nay vẫn không thấy bóng dáng của Vũ cô nương? Nếu không phải vì được phía trên ra lệnh, cô cho rằng Vũ cô nương có thể ngồi yên nhìn Bắc Sóc hỗn loạn như vậy mà không nhúng tay sao?”
Nội tâm Sở Kiều chùng xuống, nàng còn đang định phản biện thì chợt nghe thấy tiếng vó ngựa gấp rút chạy đến.
Người trên đường đều dạt ra né tránh, người trên ngựa kêu to: “Sở đại nhân! Sở đại nhân ở đâu?”
“Ở đây!” Vừa nhìn thấy người nọ, Sở Kiều lập tức vui mừng kiễng chân vẫy gọi: “Ta ở đây!”
Chiến mã lao tới, nam nhân nhảy xuống khỏi lưng ngựa chạy đến trước mặt Sở Kiều, lớn tiếng gọi: “Đại nhân!”
“Đã xảy ra chuyện gì? Vì sao bây giờ mới trở về? Những người khác đâu? Có gặp được Vũ cô nương không?”
“Đại nhân, trên đường chúng ta gặp phải thổ phỉ, tất cả huynh đệ đều bị đạo tặc bắt giữ!”
“Cái gì?” Sở Kiều và Tiết Trí Viễn đồng thời hỏi to.
Sở Kiều không thể tin nói: “Đạo tặc nào mà dám càn rỡ như vậy? Các ngươi nhân số trước sau có hơn năm trăm người, làm sao có thể nói bắt là bắt?”
“Đại nhân, mặc dù chúng ta có không ít người nhưng nhân số của đối phương lại đông hơn, bọn họ có khoảng hơn bảy ngàn người.”
“Chớ nói vớ vẩn!” Tiết Trí Viễn lạnh giọng quát: “Các ngươi khinh địch rồi đẩy lý do cho đạo tặc thì có. Hiện giờ ở Bắc Yến đâu cũng là nghĩa quân, làm gì có đội đạo tặc nào hơn bảy ngàn người, rõ ràng là trốn tránh trách nhiện!”
Thân vệ kia dựng mày kiếm, lập tức khảng khái nói: “Tiết đại nhân, huynh đệ chúng ta dù có bất tài thì cũng là quân tinh nhuệ đi theo điện hạ Nam chinh Bắc chiến, dẫu chết trận cũng không hề nhăn mặt nhíu mày. Hôm nay nếu ta có nói lời nào không đúng sự thật, xin bị vạn tiễn xuyên tâm, chết không tử tế!”
Mặt Sở Kiều trắng bệch, trầm giọng nói gằn từng chữ một: “Vậy còn nhóm đầu tiên? Đội ngũ hộ tống các tỷ tỷ ta đến Lạc Thành cũng bị bắt giữ rồi sao?”
Thân vệ kia nhất thời lộ vẻ buồn bã, quỳ xuống dập đầu, bi thương nói: “Thuộc hạ vô năng, xin cô nương trách tội.”
Sở Kiều hít sâu một hơi, nghĩ tới ba người Kinh gia không biết đã hoảng sợ đến độ nào thì trầm giọng hỏi: “Các tỷ ấy bây giờ ra sao? Đám đạo tặc kia có yêu cầu gì? Người của chúng ta có bị thương tổn không?”
Thân vệ kia tỉnh táo lại, vội vàng trả lời: “Không có, không ai bị gì. Bọn thuộc hạ trúng phục kich của bọn chúng nhưng rất ít huynh đệ bị thương. Ban đầu bọn chúng còn hung ác bảo bọn thuộc hạ chuyển lời, sau nghe nói bọn thuộc hạ người của đại nhân thì thái độ liền chuyển thành rất hòa nhã.”
Sở Kiều sửng sốt, hỏi lại: “Ngươi nói sao?”
“Đại nhân, những người đó không biết chúng ta là ai, phục kich bắt giữ chỉ vì muốn tìm người chuyển lời, bọn họ nói muốn gặp đại nhân.”
“Muốn gặp ta?”
“Đúng vậy.”
Mi tâm nhíu chặt, Sở Kiều hỏi: “Thủ lĩnh của bọn họ là ai?”
“Người đó khoảng hơn ba mươi, thân thủ hết sức dũng mãnh, nhìn qua cũng không phải thổ phỉ tầm thường mà giống quân nhân được huấn luyện chính quy hơn. Cả đội ngũ cũng không kém, ai cũng sở hữu năng lực chiến đấu cao, trang bị vũ khí cũng đầy đủ, nhưng trên người lại không mặc quân phục. Hắn không chịu nói ra thân phận của mình, chỉ nói là không có ác ý, chỉ cần đại nhân nhìn thấy hắn sẽ biết được bọn họ là ai.”
Sở Kiều nhướng mày, trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên nói: “Chuẩn bị ngựa, chúng ta đi gặp hắn.”
“Cô điên rồi!” Tiết Trí Viễn kéo Sở Kiều lại.
Dẫu đang có quan hệ đối địch nhưng hai người dù sao cũng là cùng một chiến tuyến, nam nhân trầm giọng nói: “Bây giờ ra khỏi thành? Cô không muốn sống nữa à?”
Sở Kiều quay đầu nhìn hắn, nghiêm túc nói: “Các tỷ tỷ và thuộc hạ của ta đều ở trong tay đối phương.”
“Vậy thì sao? Một mình cô đối đầu được với bọn chúng sao?”
“Chẳng lẽ Tiết tướng quân muốn phái quân đi theo ta? Không cần nhiều, năm ngàn người cũng đủ rồi.”
Tiết Trí Viễn nhất thời cứng họng, hắn chỉ là một tướng tiên phong, hiện tại Tào Mạnh Đồng chủ trương bảo tồn thực lực, đừng nói là năm ngàn người, năm trăm hắn cũng không cách nào điều động.
Sở Kiều hừ lạnh một tiếng, leo lên chiến mã vừa được dắt đến, lạnh lùng quát ‘hây’ một tiếng, chạy theo thân vệ kia.
Chiến mã dựng thẳng vó trước rồi phóng về phía cổng thành.
Tiết Trí Viễn nhíu mày, đúng lúc đó có một tiểu binh cưỡi ngựa đi ngang, hắn lập tức đạp tên lính té xuống, phóng lên rồi thúc ngựa chạy như điên về phía cổng thành, đuổi theo Sở Kiều.
Tags: Nam cường, Nữ cường, Truyện cổ trang, Truyện Happy Ending, Truyện ngôn tình, Truyện Trung Quốc, Truyện xuyên không