Ra khỏi Phong thành chưa lâu, trên đường đi được nghe rất nhiều lời đồn về Lưu Giác. Dân chúng bên đường nhắc đến chàng với vẻ vừa kính nể vừa sợ hãi, họ đồn chàng diệt sơn tặc trừ họa cho dân, đồn là chàng mặt sắt không nương tay, giết người không chớp mắt. Nhưng lời khen vẫn nhiều hơn, chàng chấn chỉnh Nam quân đâu vào đấy, hết sức nghiêm minh. A La nghe dân chúng bàn tán, nghĩ đến quân đội hiện đại, nàng không hiểu lắm về quân đội, chỉ có ấn tượng đó là đội quân rất tốt với nhân dân. Nhưng nghĩ đến Lưu Giác, nàng lại thở dài, lờ mờ cảm thấy từ sâu trong lòng nỗi mong ngóng muốn gặp lại chàng, nhưng lại không dám đối diện. Nàng không dám đối diện với hiện thực rủi ro nhỡ chàng vẫn chưa hết giận áp tải nàng trở về tướng phủ.
Thất phu nhân và Tiểu Ngọc từng lo lắng hỏi nàng, nếu gặp Lưu Giác liệu có bị bắt đưa về không? A La cười hì hì: “Tướng phủ lẽ nào không có ai đi tìm? Tử Ly chắc cũng thế. Lưu Giác tính khí kiêu ngạo, chàng ta muốn đưa chúng ta về, nếu ta ngoan ngoãn nghe theo, đảm bảo chàng ta sẽ cảm thấy vô vị, mà với tính cách chàng ta, nếu không thích sẽ tuyệt đối không làm. Chúng ta cứ thong thả du sơn ngoạn thủy rong ruổi đến thành Lâm Nam, bị chàng ta tóm trước khi đến đó, là do số chúng ta đen đủi, muộn một chút thì chúng ta cũng đã rong chơi đủ rồi. Chuyện này khoan nghĩ vội, gặp người rồi hẵng hay, chẳng lẽ chúng ta trốn chạy cả đời? Đến nước khác nếu xảy ra chuyện lại trốn hay sao? Đành phải đối diện thôi”.
Thất phu nhân than thở: “Tam Nhi, con đã cứng rắn trưởng thành hơn nhiều, chỉ có điều có những lúc dù có mạnh đến mấy cũng không làm gì được”.
“Sẽ có cách, chúng ta sẽ vẫn đi về phía nam, đợi kiếm đủ bạc sẽ đến Trần quốc xem sao, không biết nơi miền quê yên bình liệu có chỗ nào để chúng ta dung thân. Mẹ nói cũng phải, mạnh cũng chẳng ích gì, chúng ta có gì nào? Tiền bạc không, quyền lực không, con đánh cược, mấu chốt vẫn là ở thái độ của Lưu Giác. Chỉ cần qua cửa ải chàng ta, phía tướng phủ cũng dễ đối phó. Huống hồ, chuyện qua đã lâu, làm gì có ai cố chấp như thế, chỉ có người không bình thường”. Nói xong câu đó, A La nghẹn giọng, nghĩ đến vẻ thành tâm của Lưu Giác một lòng một dạ muốn bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Lại thở dài, gạt những ý nghĩ đó sang một bên, miệng cười thật tươi: “Đằng nào bây giờ chúng ta cũng chưa có bạc, cứ thong thả hẵng hay, mọi người đừng lo. Mẹ à, dù thế nào A La cũng hiếu thuận với mẹ, Tiểu Ngọc à, tướng công sẽ nuôi nàng”.
Với tâm thái như vậy họ sống qua hai năm trên đường đến Lâm Nam. Trong những năm này, Lưu Giác không tìm được nàng, Tử Ly và người của tướng phủ cũng không tìm được nàng, không biết là số may mắn hay là còn ẩn tình gì khác, nhưng họ đã sống những ngày thực sự vui vẻ.
A La cau mày thở dài. Suy nghĩ theo hướng tích cực là một chuyện, nếu thực sự gặp lại, e sẽ là chuyện khác. Nếu Lưu Giác nổi giận lôi đình thì sao? Nếu chàng vẫn ôm hận thì sao? Nếu chàng nhất định đưa thất phu nhân và nàng trở về tướng phủ thì sao?
Mặc dù từ ngày quen nhau đến giờ, luôn là nàng khiến chàng bực mình, nhưng cũng không thấy chàng tỏ ra thực sự muốn báo thù. Có điều, nàng thoái hôn khiến Lưu Giác mất mặt, chàng ta sẽ phản ứng ra sao, A La không dám khẳng định. Nàng hơi hối hận, hay là mình quá tự tin?
Lúc này νú Trương báo, đã tìm được một chỗ ở khác, theo yêu cầu của A La, đó là một nơi gần dãy núi phía tây thành. Thất phu nhân hiếu kỳ hỏi: “Tại sao phải ở gần núi?”.
A La không muốn để thất phu nhân lo lắng. Khó khăn lắm mới ra khỏi tướng phủ, mấy năm nay thất phu nhân lòng đã nhẹ nhõm, vui lên rất nhiều. Nếu gặp chuyện căng thẳng, nỗi lo lắng ám ảnh, bà sẽ không chịu nổi. Vậy là nàng cười, nói: “Ở đó vắng vẻ yên tĩnh”. A La quyết định tạm thời không nghĩ đến chuyện có gặp phải Lưu Giác hay không. Đã đến đây, bây giờ chưa gặp, cứ làm theo kế hoạch đã, sau này nếu gặp hẵng hay. Nàng dự định ngày hôm sau sẽ chuyển khỏi quán rượu của νú Trương.
Sáng sớm hôm sau, tiếng cười trong vắt của Tiểu Ngọc vang khắp sân: “Tiểu thư, tuyết rơi rồi”.
A La khoác áo dài, tóc vẫn để xõa bước ra ngoài. Thật vậy, những bông tuyết bay trắng trời, phủ một lớp mỏng trắng xóa lên những mái nhà xa gần trên sườn núi. Những ngọn cây xanh thẫm và những mái cong đen sì thấp thoáng lộ ra trong biển tuyết. Cảnh sắc này trông giống gì nhỉ? Tranh thủy mặc! A La mỉm cười thốt lên, thành Lâm Nam đẹp thật. “Tiểu thư, không sợ nhiễm lạnh sao!”. Tiểu Ngọc phủi tuyết trên vai nàng, khoác cho nàng chiếc áo gió, ân cần khẽ trách. A La nhìn Tiểu Ngọc, cười nói: “Đi lên núi dạo chơi không?”.
“Ồ, tiểu thư, tiểu thư vẫn chưa rửa mặt chải đầu”.
“Không hề gì, Tiểu Ngọc rửa mặt, chải đầu là được rồi, đi thôi!”. A La cười vung chân vung tay sải những bước dài, cải tạo Tiểu Ngọc chỉ thành công một nửa, người ở đây tư tưởng thâm căn cố đế, khó mà thay đổi.
Sáng sớm, trên con đường mòn giữa chừng núi, thỉnh thoảng họ gặp một lão tiều phu khoác bó củi hoặc sọt than hoa to đi vào thành, từ khu nhà dân thoảng hoặc vọng ra tiếng chó sủa. Qua một con đường nhỏ, đã nghe thấy tiếng thác chảy. A La dắt tay Tiểu Ngọc thận trọng vòng qua mặt thác. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy quán rượu của νú Trương bên dưới, có thể nhìn rõ νú Trương cùng thất phu nhân đang đứng trên sân ngắm tuyết. Ở khu nhà giữa những làn khói mỏng cuộn lên, bức tranh thủy mặc vậy là có sinh khí, sinh động hẳn lên.
A La cúi người, cầm lên một phiến băng mỏng, bóp nát, giơ lên cho từng giọt nước nhỏ xuống mặt, lạnh run người, nhưng lại rất dễ chịu, cả người như được kich hoạt tỉnh táo, sảng khoái vô cùng. Nàng từ từ đứng dậy, hít căng một hơi không khí trong lành, vươn người. Tiểu Ngọc nheo mắt xuýt xoa: “Tiểu thư, tiểu thư chưa rửa mặt mà sao vẫn đẹp như thế!”.
A La lòng tràn trề vui sướng, hân hoan, cất tiếng cười giòn tan.
Trong khu rừng ở một mé sườn núi, Lưu Giác mình khoác áo choàng đen, im lặng ngồi trên lưng ngựa, mấy binh sĩ Ô y kỵ cũng im lặng như chàng. Lưu Anh nhìn về phía trước, tam tiểu thư thay đổi thật rồi, trước đây nhỏ nhắn xinh xẻo, bây giờ đã là một đại mỹ nhân đẹp rực rỡ khiến người ta hồn siêu phách lạc, y thầm thở dài, người như vậy, chẳng trách chúa thượng quyến luyến không thể nào quên.
Lén nhìn Lưu Giác, thấy chàng mím môi, không biểu cảm, toàn thân tựa hồ biến thành tảng đá im lìm. Lưu Anh lại thở dài, sáng sớm tinh mơ cưỡi ngựa lên núi, đứng đến hơn nửa canh giờ, không nói không rằng, cứ nhìn như vậy, là có ý gì, rõ ràng lòng rất muốn, lại không chịu đi gặp nàng ta.
Lưu Giác trầm mặc như một cái đầm sâu hút, ánh mắt phân vân. Sau khi A La ra đi, không chỉ một lần chàng tự hỏi, rút cục mình đang tức giận điều gì? Nghĩ đến A La không cần mình, lòng chàng hận đến muốn bóp chết nàng; nghĩ đến những lúc ở bên A La, dẫu nàng làm cho mình tức giận, lòng chàng lại tràn ngập âu yếm, vấn vương, lại buồn man mác.
Ba ngày sau khi được phong Bình Nam tướng quân, chàng liền rời kinh, đi về phương nam. Chàng phóng ngựa đến biệt uyển của Hộ Quốc công chúa, thơ thẩn trong rừng đào cả một ngày. Sơn cốc tiết cuối hạ, cỏ vẫn xanh như thế, nhưng đào đã không còn nở hoa. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng bùng cháy, người nóng bừng, chàng nhảy xuống suối. Làn nước lạnh ngắt ôm ấp chàng, hỏa khí tiêu tan, chàng bất giác cười đau khổ, dạo đó nếu chàng không lang thang tới đây, nếu cứ để A La ngã xuống suối, thì đã không có mọi vấn vương về sau, tất cả đều là ý trời.
Chàng đến tướng phủ, Lý tướng đưa chàng đi thăm Đường viên. Khóm hải đường cành đã xum xuê, xòe ra che nửa sân, Lý tướng ngậm ngùi nói, Đường viên tất cả vẫn y nguyên, chỉ đợi chàng đưa thất phu nhân và A La trở về. Nghĩ đến lần A La ăn cơm trên thuyền hoa bữa đó, nàng hầu như chỉ ăn thịt không ăn rau, lại nhìn Đường viên lạnh lẽo tiêu sơ và khuôn mặt đẫm nước mắt của Lý tướng, người chàng bỗng run lên. Nếu Lý gia không đối xử nghiệt ngã với A La, tuổi còn nhỏ như vậy làm sao nàng dám hành động to gan đến thế! Cho dù không muốn lấy chàng, cũng không đến mức đưa mẹ và tỳ nữ bỏ trốn! Nghe nhắc đến câu thơ A La đọc lúc sáu tuổi, lòng chàng càng đau thắt, điều gì khiến một đứa trẻ sáu tuổi làm ra những vần thơ bi ai như vậy!
Năm đó, do cáo thị khắp nước thông báo A La bị bắt cóc, bản thân chàng gần như cũng tưởng thật, đem tất cả nỗi tức giận, đau đớn trong lòng trút lên đầu bọn sơn tặc, nhưng lại bất ngờ giành được sự kính trọng của tướng sĩ Nam quân. Về sau, để thu phục cánh quân này, chàng ngày đêm trăn trở, suy nghĩ, muốn loại bỏ thế lực của họ Vương không phải chuyện dễ. Chàng buộc phải học cách tự kìm chế, thận trọng, suy tính trước sau. Bây giờ, A La đã đến Lâm Nam, chàng thầm nghĩ, nếu là trước đây, chàng đã chặn A La ngay từ khi nàng xuất hiện ở cổng thành. Còn bây giờ, điều chàng mong muốn là, nếu hỏi lại câu đó, có muốn cùng chàng đồng cam cộng khổ, nàng sẽ không do dự cho chàng một câu trả lời khiến chàng hài lòng.
Lưu Giác từ xa lặng lẽ đứng nhìn, A La đang đứng trên triền núi, chiếc áo choàng rộng bao bọc thân hình mảnh dẻ, mái tóc dài xõa đến eo, giữa thảm tuyết trắng xóa bên dòng thác bạc dáng phiêu diêu tự tại, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Ba năm nay nàng thay đổi không ít, khuôn mặt đã nở nang đầy đặn, không còn nét vụng về trẻ con ngày trước, chiếc cằm nhọn xinh, làn da như bạch ngọc phớt hồng, càng khỏe mạnh, tràn trề sức sống. Đôi mắt đó không thay đổi, vẫn trong veo như nước nguồn, lóng lánh tinh nghịch, hễ cười là sóng sánh mê ly. Mới sáng sớm chưa chải đầu A La lại vẫn đẹp đến thế!
Chàng nên xả hận, nên trừng phạt người đó mới phải, nhưng lòng chàng bây giờ tràn ngập hình ảnh người đó, chỉ muốn ngắm nhìn mãi, ngắm vẻ linh lợi như con chim yến đó. Một nỗi êm dịu từ từ dâng lên trong đáy mắt chàng, triền miên vấn vít, như những con sóng ngầm lặng lẽ từ cơ thể tỏa ra, Ô y kỵ đứng phía xa trong rừng cũng cảm nhận được, bất giác thở phào.
Tiếng cười trong vắt của A La vọng lại, như tiếng chim lảnh lót văng vẳng giữa rừng, như tiếng thác bạc đổ ào trên đá, vỡ vụn tung lên, lan tỏa trong tầng không buổi sớm tinh sương, vấn vương trên triền núi. Nàng không hề áy náy gì ư ? Không hề day dứt tí nào sao? Mất tích mấy năm liền mà vẫn ung dung sung sướng như vậy, trong khi khiến bao người khổ công tìm kiếm, người ngựa rối ren. Nỗi giận lại trào lên, Lưu Giác “hừ” một tiếng, ngồi thẳng trên mình ngựa, sát khí lại trùm lên cả khu rừng, hàn khí lại ngưng tụ trong đáy mắt. Con tuấn mã bên dưới có vẻ bồn chồn, không ngừng giậm vó một cách bất an, chàng cơ hồ lập tức thúc ngựa lao lên, bàn tay xiết chặt dây cương nổi hằn những đường gân xanh.
Đột nhiên, phía nam thành phụt lên một đám khói đen. Lưu Giác cau mày, thủy quân Trần quốc động binh ư? Chàng liếc nhanh A La lúc đó cũng đang ngẩng nhìn đám khói trên trời, lặng lẽ quay đầu ngựa phi xuống núi, Ô y kỵ lẳng lặng đi theo.
Đám khói ngưng đọng trên không mãi chưa tan, lại có tiếng chuông dồn dập nối nhau. Tiểu Ngọc kêu lên “Có chuyện rồi?”. Cùng với tiếng chuông, dân chúng đổ ra đường, ai nấy mặt mày hốt hoảng.
A La nói: “Về nhà xem sao”.
Hai người trở về tửu quán, νú Trương hốt hoảng chạy ra: “Tiểu thư, hai người đã về, không được ra khỏi nhà, hai nước khai chiến rồi”.
A La, thất phu nhân và Tiểu Ngọc nhìn nhau. Thất phu nhân luống cuống: “Chẳng phải đã mấy chục năm không đánh nhau cơ mà? Sao bây giờ nói đánh là đánh ngay?”.
A La thấy νú Trương cũng không biết gì hơn, bèn nói: “Con vào thành nghe ngóng tình hình. Tiểu Ngọc, ở nhà với mẹ và νú Trương, đóng cửa lại, không được đi đâu”.
Thất phu nhân không chịu: “Con đưa Tiểu Ngọc đi cùng. Chúng ta ở đây, không đi đâu hết, con đi một mình, sao mẹ yên lòng?”.
Tiểu Ngọc cũng đồng tình. A La bất lực, vội vào thay áo cùng Tiểu Ngọc đi ra.
Các cửa hiệu trong thành vẫn mở cửa. Trên phố có rất nhiều người tụ tập sốt ruột ngóng tin. Cổng thành đã đóng, A La kéo một người hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”.
“Nghe nói thủy quân Trần quốc đánh lén, Cố tướng quân đã tập hợp đội thuyền chuẩn bị nghênh chiến!”.
“Ở đâu có thể nhìn thấy tình hình trên sông?”.
“Sườn dãy Tây Sơn. Bao nhiều người đang đi đến đó”.
A La và Tiểu Ngọc hỏi đường đến dãy Tây Sơn. Lưu Giác lên thẳng thành môn lầu, tri phủ Lâm Nam vội đi đến chắp tay bẩm báo:
“Bẩm tướng quân! Cổng tây đã đóng, thủy quân nước Trần đã có chuẩn bị, sáng sớm nay đột nhiên tấn công, binh sĩ đi tuần trên bờ bên này bị trúng tên thiệt mạng, thi thể vừa mới phát hiện, khi lính gác dùng ống nhòm quan sát, quân Trần đã đến giữa sông”.
“Chém!”. Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh.
Tri phủ sững người. Một quân sĩ được cử thi hành mệnh lệnh , nửa khắc sau đã đưa đầu tên lính gác về.
Tri phủ toát mồ hôi lạnh, Bình Nam tướng quân này sao nói chém là chém, còn không thèm liếc nhìn một lần.
Ánh mắt Lưu Giác lướt qua mặt các binh sĩ trên thành môn lầu, nói dõng dạc: “Hai nước Ninh, Trần đã ngừng chiến mười năm, biên cương yên bình, thông thương phồn thịnh. Nay Trần quốc đột nhiên xâm phạm Lâm Nam, có ý đồ xâm chiếm giang sơn chúng ta, bọn lang sói dã tâm, tất bị trời phạt! Nuôi binh ngàn ngày, chính là đợi lúc này, xả thân báo quốc, bảo vệ giang sơn, là chí hướng của nam nhi chúng ta!”
Quân sĩ rầm rầm hưởng ứng: “Nguyện cùng tướng quân bảo vệ Lâm Nam, đánh bại quân Trần!”.
Lưu Giác quyết đoán hạ lệnh cho tri phủ và quan thủ thành Lâm Nam, thực hiện triệt để quản chế quân sự, đồng thời trấn an thương khách và dân chúng. Một loạt mệnh lệnh như pháo nổ, liên tiếp từ miệng chàng ban ra, thấy chúa thượng điềm tĩnh xử trí, thái độ bình thản, quân sĩ hết lòng tin tưởng, từng người nhận lệnh răm rắp thi hành.
Lưu Giác đứng trên tường thành, nhìn về mặt sông, khi thủy binh của quân Trần cách thành Lâm Nam không quá năm chục trượng liền bị đội chiến thuyền của Ninh quốc chặn đánh, tên bắn như mưa, đã có thuyền áp sát thuyền địch, binh sĩ nhảy lên thuyền đánh giáp lá cà, tiếng hô “giết” động trời, Lưu Giác quan sát tình hình, biết thủy binh của Nam quân đã đến muộn, mặc dù vẫn còn chiến thuyền tiếp tục từ thủy trại đi đến, nhưng cục diện diễn ra vẫn không có trật tự bằng quân Trần.
Lúc đó đột nhiên trên mặt sông, một tiếng động vang như sấm, định thần nhìn ra, thấy Cố Thiên Tường mình vận áo bào trắng, chiến giáp, đứng trên lầu chiến thuyền lao vào thủy binh quân Trần, chiến thuyền phía trước và hai bên bố trí theo hình mũi tên, xông thẳng vào chiến thuyền địch. Tiếng trống đồn dập, không kịch liệt, nhưng sục sôi khiến người ta hồn bay phách lạc, sát khí hừng hực.
Cố Thiên Tường vô cùng phẫn nộ. Năm ngoái đã biết quân Trần muốn gây chiến, có dấu hiệu điều binh, chàng đã ngày đêm theo dõi, nhưng vẫn bị tập kich bất ngờ, để địch tiến gần Lâm Nam như vậy thủy quân mới triển khai thế trận nghênh chiến. Chàng phẫn nộ đích thân thúc trống cổ vũ tinh thần quân sĩ. Thấy thuyền đã vào khoảng cách có thể bắn tên, chàng giơ tay, cờ hiệu, biểu ngữ lập tức phất cao, trận mưa tên dày đặc bắn ra, hai bên bắt đầu giao chiến ở cự ly gần.
Thủy binh được cổ vũ bởi tiếng trống trận, chiến đấu rất anh dũng. Lưu Giác đứng trên tường thành nhìn rõ, lần tập kich bất ngờ này quân Trần đã có chuẩn bị, với thực lực của nước Trần, có thể huấn luyện được đội thủy quân binh lực ngang ngửa thủy quân của Ninh quốc, quân Trần tất đã âm thầm chuẩn bị từ lâu. Quân Trần tiến đánh bất ngờ, thủy quân của ta rõ ràng ở vào thế bất lợi. Chàng nhìn Cố Thiên Tường lúc này không đánh trống nữa, trực tiếp chỉ huy trận đánh, ngoài đội thuyền của chàng ta vẫn chưa rối loạn, các đội khác bắt đầu bị chọc thủng, đội hình sắp rối loạn.
Lưu Giác thét to: “Thiên Tường rút lui!”. Giọng chàng dùng hết nội lực, Cố Thiên Tường ở cách hơn trăm mét sững người, mắt sáng lên, một tay giật cờ hiệu trong tay binh sĩ, bắt đầu truyền lệnh.
Lưu Giác đứng trên tường thành, giang thẳng hai tay, tiếp ngay đó là tiếng trống “thùng thùng” dồn dập, quyết liệt hào sảng, nối nhau, dân chúng đứng trên triền núi phía xa, cảm động rơi nước mắt. A La đứng từ xa nhìn về phía thành môn lầu, thấp thoáng thấy một bóng người vận áo choàng đen, tay vung dùi trống mạnh mẽ và quyết liệt, khí thế tựa con rồng đen vùng vẫy, nàng bỗng giật mình, là Lưu Giác sao? Dáng chàng dũng mãnh kiêu hùng, mỗi động tác hừng hực toát ra khí phách nam nhi. Nghe tiếng trống hùng tráng, A La nghĩ đến lúc chàng ra tay cứu mình trong bữa tiệc ở Đông cung, nước mắt trào ra tự lúc nào.
Lúc này, dưới cờ hiệu của Cố Thiên Tường, chiến thuyền Nam quân rào rào di chuyển vào bờ, quân Trần lại tiến thêm hơn hai chục trượng về phía bờ. Trong khúc nhạc trống với sứ mệnh vĩnh hằng, hừng hực sinh khí không bao giờ cạn kiệt. Nam quân bình tĩnh nhanh chóng chấn chỉnh đội hình, tiếng hô “giết” chìm nghỉm trong tiếng trống.
Quân Trần thấy Nam quân nhanh chóng thay đổi thế trận, thấy sắp tiến đến gần thành môn lầu, vội vẫy cờ ra hiệu tiến nhanh hơn. Toán quân sĩ đứng trên thành môn lầu đang chán nản, bỗng nghe thấy một tiếng thét vang trời: “Đừng hòng chạy thoát!”.
Lưu Giác quẳng dùi trống, vung tay ra hiệu, trận mưa tên từ các cửa khẩu dưới chân tường thành bắn ra như mưa, như một con rồng đen điên cuồng vun νút xông vào đội thuyền của quân Trần. Chiến thuyền của Nam quân từ hai phía ven sông như đôi cánh khổng lồ giương lên bắt đầu phản kich. Đội tiên phong của quân Trần lại biến thành hậu ứng, lập tức rút về bờ bên kia, một số thuyền bị kẹt trong vòng vây không kịp trở tay, nhằm hướng bờ xông tới. Khi cách tường thành chỉ mười trượng, bị những tảng đá lớn trên thành lao xuống đập nát, từ phía chiến thuyền Nam quân dậy lên những tiếng hoan hô vang trời.
Trong trận này hai bên đều có tổn thất, thương vong tương đối, được cổ vũ bởi lần đầu xuất chiến thắng lợi, sĩ khí Nam quân dâng cao vạn trượng!
Lưu Giác nhìn chiến trường bên dưới, lộ vẻ mệt mỏi, nhưng lại lập tức che giấu. Chàng lấy lại tinh thần, nói to: “Tối nay tướng phủ mở tiệc khao quân!”.
Tướng sĩ phấn khởi, từ trên thành đi xuống, dân chúng tưng bừng nổi trống hoan hô, có thương hội cử người gõ trống khua chiêng mang rượu thịt đến mừng ba quân.
Vẫn còn sớm chưa đến giờ mở tiệc, Cố Thiên Tường bố trí xong thủy quân, không kịp cởi chiến giáp đi ngay đến phủ tướng quân. Lưu Giác thay chiếc áo chùng rộng màu xanh sẫm nằm trên sập, có hai lính hầu xoa bóp chân tay. Cố Thiên Tường hăm hở ngồi xuống ghế, lính hầu lập tức đưa khăn ấm, chàng đón lấy lau mặt. Lính hầu dè dặt hỏi: “Tướng quân có cần cởi giáp nghỉ ngơi một chút?”.
Cố Thiên Tường liếc nhìn chàng, sát khí trên người vẫn chưa tan, lính hầu lập tức ngậm miệng lui ra.
Lưu Giác hé mắt, lính hầu dâng trà, chàng đón lấy uống hai ngụm, chậm rãi nói: “Khó chịu hay sao?”.
Cố Thiên Tường trầm giọng hỏi: “Huynh nhận định thế nào?”.
“Nếu là huynh, huynh sẽ không ngốc đến mức chỉ dùng thủy quân tấn công chính diện, nếu như thế này đã có thể thành công, nước Trần đã khai chiến từ mấy năm trước. Để lâu như vậy, đột nhiên tập kich, họ không ngốc đến mức lại đến lần nữa, chúng ta có thể chờ thời cơ tốt hơn”.
Mắt Cố Thiên Tường dịu lại: “Huynh còn nhớ trò chơi thuở nhỏ của chúng ta không?”
Lưu Giác tròn mắt nhìn chàng ta: “Lại đây bóp vai cho huynh, mỏi chết được!”.
Cố Thiên Tường không nói gì, đứng dậy, Lưu Giác phát hoảng: “Thôi được rồi, đệ mà bóp không khéo nát vai huynh mất”. Thiên Tường tiến đến bên Lưu Giác, chàng lại phát hoảng, nhưng thấy chàng ta đã nằm trên sập nói với lính hầu: “Thay trà, bóp chân! Đệ ngủ một lát, huynh tự thu xếp”. Đoạn nhắm mắt như ngủ.
Lưu Giác dở khóc dở cười, lát sau mỉm cười thật sự, tinh thần phấn chấn đi ra khỏi phòng.
Cố Thiên Tường nhắm mắt, ý nghĩ quay trở về nhiều năm trước, khi Lưu Giác và chàng chơi trò đánh trận. Lúc đó chàng đã dùng chiêu này để ăn quá nửa binh kỳ của Lưu Giác. Chàng hét: “Thiên Tường rút đây, mặc cho huynh liều mạng tấn công!”. Lưu Giác suy nghĩ hai ngày, khi gặp lại, chàng ta đã phá được chiêu này của chàng, chia hai cánh quân bao vây, chặn đường rút, đắc ý nói: “Huynh chặn chân đệ, để cho đệ phải lăn lộn trên đất!”. Nghĩ đến đây, nét mặt chàng đã dịu lại, nhắm mắt ngủ thiếρ. Mọi người trong Thường Lạc tửu quán cũng rất vui, thất phu nhân nói: “Nếu thành Lâm Nam dễ bị phá như thế, thì đã đánh nhau từ mười mấy năm trước rồi”. Hổ Tử líu lo: “Hổ Tử cũng muốn làm tướng quân”.
Mọi người vui vẻ cười ồ.
“Phu nhân à, già thấy mọi người không nên chuyển đi. Có chuyện gì cả nhà cùng ở một chỗ mới có thể giúp nhau”. Vú Trương nói.
A La thở dài. Hôm đi chơi quan sát bên sông, phát hiện dãy Tây Sơn địa thế hiểm trở, mà lại không ở vị trí tiền tiêu, có đường rút lui, vốn định chuyển đến đó, nhỡ xảy ra chuyện biết đâu có thể lén chạy trốn. Bây giờ chiến sự xảy ra, mặc dù đã đánh lui thủy quân của nước Trần, không biết liệu có trận thứ hai, trận thứ ba, lúc đầu ở phân tán là sợ liên lụy đến gia đình νú Trương, bây giờ ở chung mới dễ giúp nhau. Nàng mỉm cười tán thành: “Đương nhiên, chúng ta ở chung”.
Trở về phòng, lại không ngủ được, cũng không đốt đèn sợ ảnh hưởng đến thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng khoác áo ngồi dậy thẫn thờ. Trước mắt lại vụt hiện bóng dáng kiêu hùng của Lưu Giác lúc đánh trống trận. Bắt đầu từ phút đó cho đến lúc rời đi, mắt nàng không hề rời khỏi Lưu Giác trên thành môn lầu. A La cảm thấy, lúc đó nàng thực sự có cảm giác sùng bái người anh hùng ấy, chợt mỉm cười, trước đây nàng còn không quan tâm Lưu Giác là người thế nào.
Ngũ đại công tử Phong thành đều ngoại hình tuấn tú, dáng vẻ quý phái: Tử Ly tuấn tú an nhiên, nụ cười bất biến trên môi, trông thân thiện dễ gần nhất, nhưng luôn phảng phất buồn; Thành Tư Duyệt trẻ tuổi đã sớm thành danh, phong lưu mã thượng; Cố Thiên Tường có vẻ đẹp lạnh lùng, thâm trầm như tảng băng, thỉnh thoảng mới thấy cười, dù có nói nhiều cũng không thay đổi được ấn tượng này.
Còn Lưu Giác, vừa gặp đã biết là người tự mãn, cao ngạo, ham hố báo thù, là kiểu công tử được nuông chiều chơi bời bạt mạng. Chính chàng ta lệnh cho người khiêng kiệu giở trò khiến nàng nôn thốc tháo, lại còn ép nàng học đàn, bắt nàng đánh khúc “Bội lan”, vậy mà trong bữa tiệc ở Đông cung, lại có gan đứng ra cứu nàng, dù không trực tiếp đối đầu với thái tử, nhưng ngữ khí cứng rắn hàm ý bất luận thế nào cũng sẽ bảo vệ nàng đến cùng. Đêm hôm đó, A La dường như nhìn nhận lại con người chàng, để cho chàng cưỡi ngựa hộ tống về phủ. Lại còn sau lần gặp sát thủ giữa đường, chàng một lòng chân tình hứa suốt đời suốt kiếp che chở bảo vệ nàng, lúc đó A La đã muốn buông mình trong vòng tay chàng. Ba năm trước, khi đốt cầu phao, từ xa nàng nhìn thấy Lưu Giác ở bờ bên kia, khoảng cách lớn như vậy, nhưng nàng vẫn cảm nhận được nỗi đau đớn phẫn nộ của chàng, khiến nàng không dám nhìn sang. Về sau lại nghe nói chàng dẹp sơn tặc, chỉnh đốn Nam quân cứng rắn, quyết đoán. Lưu Giác tựa hồ thiên biến vạn hóa, khiến nàng nhìn không thấu, đoán không ra.
A La mơ màng nghĩ, ba năm nay hình như mình chưa hề quên chàng, rồi khép áo từ từ đi vào giấc ngủ . Ban đêm vào dịp tuyết đầu mùa và bắt đầu có sương mù, trăng thanh sao thưa thớt. Từ vách đá dãy Tây Sơn trên sông Hán Thủy gần thành Lâm Nam đột nhiên ló ra mấy bóng đen, nhìn hành động rõ ràng là cao thủ, họ lặng lẽ lần xuống chân núi, đầu nhấp nhô, sau vài động tác đã bò lên tới mặt tường thành.
Tên cầm đầu vừa vung tay, một lưỡi đoản kiếm lóe ra, cơ thể nhẹ nhàng như một con mèo bước êm ru đến sau lưng một lính gác, vừa vung tay đã kết thúc tính mệnh người lính như cắt một miếng đậu phụ. Lưỡi kiếm đen bóng, đường kiếm sắc lẹm như rạch trên giấy, binh sĩ kia đáng thương kinh hoàng chưa kịp kêu, yết hầu đã bị cắt đứt, máu chưa kịp phun, người đã đổ ập xuống.
Một tên khác nhanh chóng lột y phục trên người binh sĩ, một tên khác kéo thi thể giấu sang một bên, giây lát sau, trên tường thành đã xuất hiện một lính gác mới. Mấy bóng đen chờ thêm hai khắc, không thấy động tĩnh gì, mới thả những cái móc câu có dây đu đầu kia của tường, lính gác nhìn về bên này, hành động của những bóng đen đã bị vách đá che khuất, họ chỉ nhìn thấy tên lính giả đứng thẳng như thanh kiếm dưới trăng.
Không lâu sau, có mười tên từ vách núi Tây Sơn lọt vào thành. Tên cầm đầu làm mấy động tác tay ra hiệu, mười tên lẹ làng từ đỉnh núi bắt đầu thâm nhập xuống dưới. Gặp người, không biết chúng dùng pháp thuật gì, ngay cả chó cũng không kêu một tiếng, chúng lặng lẽ đột nhập vào khu dân cư, người dân đang ngủ bị điểm huyệt, rơi vào giấc ngủ li bì, dù tỉnh lại không có bất kỳ nghi ngờ gì.
Trên núi đã có hơn hai chục thi thể. Bọn chúng hành động mau lẹ thận trọng, lần theo đường mòn xuống núi, gặp dân thường đều nhất loạt xử lý như vậy. Không lâu sau chúng đã mò được vào trong quán rượu của νú Trương, tên cầm đầu phục ở sườn núi quan sát bên dưới, nhìn khuôn viên gồm ba dãy nhà của νú Trương, xung quanh không có nhà liền kề, sau lưng là rừng núi, rất tiện để ẩn giấu binh mã, mắt sáng lên, lẳng lặng dùng tay ra hiệu cho đồng bọn, những bóng đen bay qua tường vọt vào bên trong nhẹ nhàng như những con dơi.
Cùng lúc, trong khu rừng gần đó, ba binh sĩ Minh tổ thuộc Ô y kỵ phụng mệnh Lưu Giác bảo vệ A La. Do trời lạnh họ lần lượt nhảy lên cây, sau khi cử một người canh gác, mỗi người chọn một ví trí thích hợp tranh thủ chợp mắt. Người lính gác bỗng dỏng tai, căng mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra những bóng đen nhảy vào trong quán, nhìn thân thủ biết không phải thuộc hạ của mình. Y nhanh chóng nhận định tình hình, đối phương có khoảng hơn mười tên, bên này chỉ có ba, nên không dám manh động, chỉ khẽ đánh thức hai người kia. Ba người cùng quan sát, hợp tác lâu ngày họ lập tức có phương án, để một người quay về tướng phủ báo tin, hai người lặng lẽ áp sát quán rượu.
Khi những bóng đen bay vào sân, A La vừa khép áo, nằm xuống, đang mơ màng chưa ngủ, đột nhiên nghe tiếng then cửa “cạch” một tiếng. A La mở mắt mơ màng liếc về phía đó, trên rèm giấy cửa sổ in hình một bóng đen, then cửa nhẹ nhàng di chuyển. Nàng hoảng sợ toát mồ hôi, theo phản xạ định nhảy xuống giường, nhưng lại nghĩ như thế không được, then cửa bị mở, chứng tỏ bên trong có người, chăn chiếu vẫn còn hơi ấm, bọn đột nhập nhất định phát hiện ra nàng. Trong lúc cấp bách, nàng vội vàng trèo qua đầu giường, nấp vào cạnh tủ, thuận tay vớ được cái kéo tỉa cành cây.
Thấy cửa bị đẩy nhè nhẹ, một bóng đeo lao đến giường, A La không kịp nghĩ, tay cầm kéo xông ra đâm. Không đợi tên này kịp kêu, nàng dùng tay xỉa mạnh một nhát, đánh ngất tên đó. Tim đập thình thịch, tay nhanh nhẹn lột mạng che mặt, không phải Lưu Giác. Là một người đàn ông lạ. A La thở hổn hển, không biết người này có phải do Lưu Giác sai đến bắt mình hay không. Lại nhìn ra ngoài cửa sổ lờ mờ thấy mấy bóng đen di chuyển.
A La giật thót người, nàng ít nhiều cũng biết vài miếng võ, tuy không sánh được với cao thủ võ lâm ở đây, nhưng vẫn có thể xuất vài chiêu. Nhưng thất phu nhân, Tiểu Ngọc và νú Trương không biết gì, tay trói gà không chặt. Lòng nóng như lửa đốt, nàng lột quần áo của tên này mặc vào người, nhắm mắt, lại xỉa thêm nhát nữa. Nàng không biết rằng, tên bịt mặt dễ dàng từ trên núi lọt vào đây, cho rằng khu này chỉ toàn dân thường, nên không cảnh giác, lại thêm A La ra tay rất nhanh, vì vậy vừa rồi nàng mới dễ dàng đánh gục.
A La bịt mặt ra khỏi phòng, mấy bóng đen bên ngoài không nói gì, chỉ nhìn nàng, A La vội gật đầu, nhìn về phía phòng của thất phu nhân và Tiểu Ngọc, thấy hai bóng đen vác họ ra. Lòng đau đớn, không kìm nổi, muốn ra tay, nhưng đối phương có bốn người, nàng tuyệt đối không phải là đối thủ của chúng. Chỉ thấy tim đập dữ dội, mồ hôi túa đầy tay. Lặng lẽ theo chúng đi ra giữa sân, A La giật mình, có tới mười bóng đen bịt mặt trong sân. Chúng vứt thất phu nhân, Tiểu Ngọc và bốn nhân khẩu nhà νú Trương trên nền, lại quay vào nhà, để lại hai tên đứng trông, không đốt đèn. Trong ánh trăng mờ, một tên nói: “Còn mười canh giờ nữa mới đến giờ hành động, xử trí thế nào?”.
Tên cầm đầu nghĩ một lát, nói: “Đôi vợ chồng có lẽ là chủ quán, để lại, còn lại, giết!”.
A La hốt hoảng, lại nghe một tên nói: “Có hai đứa rất đẹp”.
Tên cầm đầu sẵng giọng: “Đừng quên thân phận và nhiệm vụ của ngươi ở đây!”.
Tên bịt mặt quỳ sụp, A La chân mềm nhũn, cũng quỳ theo. Ngay sau đó hai tên đi đến cạnh thất phu nhân và mấy người nằm ngổn ngang, vung đoản kiếm định đâm, A La không kịp nghĩ, tung chân đá chặn, miệng hô: “Cứu với!”.
Giọng nàng lanh lảnh, hai binh sĩ Ô y kỵ bên ngoài nhìn nhau, vọt tường nhảy vào. Mấy tên bịt mặt trong sân kinh ngạc tột cùng, xông vào A La, nàng vừa đánh vừa né, thầm nghĩ như thế này ít nhất bọn chúng cũng không kịp giết thất phu nhân và mọi người. Nàng chỉ đá mấy nhát, xỉa mấy nhát rồi chạy vụt ra ngoài.
Lúc đó hai binh sĩ của Minh tổ đã bắn pháo hiệu, bọn áo đen túm tụm lại một chỗ. A La nghe thấy tiếng gió đằng sau lưng, né người tránh, một binh sĩ lao đến đứng chắn bảo vệ nàng.
Bọn áo đen kinh ngạc không biết cao thủ ở đâu xuất hiện, nhìn thấy khói hoa màu xanh tím nổi bật trên bầu trời đêm, tên cầm đầu vẫy tay ra hiệu, bọn người áo đen ra tay càng mạnh.